Hôm nay,  

Bạn cũ

13/01/202300:00:00(Xem: 2907)

Minh-họa-Cao-Bá-Minh
Hình minh họa Cao Bá Minh

    

Giữa đêm khuya, một hồi chuông réo lên inh ỏi, phang thẳng vào hộp sọ. Như một cú đấm bất ngờ. Tôi bật dậy, đầu óc mụ mị, tôi không biết mình đang ở đâu, không biết có chuyện gì xảy ra. Đến lúc lờ mờ hiểu rằng đó là cái điện thoại cổ lỗ đang rống, tôi quờ tay sờ soạng tìm ống nói.

   
– Ai đó?

– Hề hề. Tớ đây, tớ đây! – từ đầu dây đàng kia vẳng tới một tràng cười khoái trá và một giọng nói ồ ề – Đang ngủ hả?  

– Ngủ.   

– Tỉnh dậy đi. Hề hề, cuối cùng rồi tớ cũng vẫn cứ tóm được cậu. Hề hề, đéo nhận ra tớ hả?
– Nhưng “tớ” là ai mới được chứ? – tôi tuyệt vọng gắt lên.

   
Trên tường, một rẻo sáng hình bình hành. Đó là ánh đèn của căn phòng đối diện, ở tầng thấp hơn, chỗ ở của hai sinh viên người Ả Rập. Văng vẳng một điệu nhạc vùng sa mạc. Họ bao giờ cũng thức khuya. 


– Cậu không nhận ra giọng tớ thật? Hay cậu giả vờ?

   
Tôi tỉnh hẳn. Tôi nổi quạu.

   
Có những người như vậy đấy. Họ tưởng tượng, họ còn đinh ninh nữa kia, rằng họ là người rất quan trọng, rất quý hoá, và thiên hạ phải nhận ra họ từ xa, trong đám đông, phải nhận ra tiếng họ trong điện thoại, và tất nhiên, phải cảm thấy sung sướng và tự hào được họ hân hạnh cho bắt tay.

   
– Này này, bắt cái đầu lười biếng của cậu làm việc tí đi – giọng ồ ề nọ lại cất lên, không ngớt vui vẻ, nó vang lên trong đêm như ở một ngã ba hoang vắng – Chẳng có lẽ cậu hoàn toàn không nhận ra thằng bạn năm xửa năm xưa là tớ?

   
Tôi muốn giập mạnh ống nói xuống cho cái anh chàng bất lịch sự bên kia nghe thấy. Mà hắn có nghe thấy không nhỉ? Có lẽ không. Tôi phải làm gì cho hắn hiểu tôi cáu đến thế nào. Hắn đang đợi câu trả lời cho câu đố. Tôi thì cóc cần bất cứ câu đố nào được ra cho tôi giữa đêm hôm khuya khoắt này.

   
– Thì nói ngay đi: “tớ” là thằng chó nào? – tôi gắt.

   
Một tràng cười rộ lên bên kia đầu dây.

   
– Cậu đoán đúng rồi đấy, tớ là thằng có tên hiệu của loài chó, nhưng lại từng là bạn của cậu. Bây giờ cậu chỉ còn có việc gọi tên nó ra thôi.

   
– Này ông bạn vớ vẩn – tôi rên lên trong tuyệt vọng – Kết thúc ngay lập tức cái chuyện ba lăng nhăng chi khươn của ông đi! Tôi đang ngủ. Tôi muốn ngủ. Tôi cần được ngủ. Tôi nhắc lại: tôi không biết ông là ai, tôi cũng cóc cần nhận ra ông là ai. Chấm hết.

   
Cuối cùng thì anh chàng đùa dai cũng thôi cười. Giọng trịnh trọng, trầm hẳn xuống, hắn tuyên bố:

   
– Tôtô đây!

   
– Tôtô?!

   
Tôi bật dậy, tỉnh ngủ hẳn. Ai kia thì có thể, chứ Tôtô? Lẽ nào lại là Tôtô? Tôi thấy hiển hiện trước mặt mình, trong bóng đêm, anh chàng đồng sự gày gò, mặt quắt (như hai ngón tay chéo, theo cách người ta thường nói), da đen xạm, đôi gò má cao, xương xẩu và hàm răng cải mả, một thời sống cùng tôi trong nhà tập thể với những dây phơi quần áo trên mỗi ban công.

   
Lại một tràng cười nữa, rất giòn giã. Như từ một thế giới khác.

   
– Nhận ra nhau rồi, hả? Tốt.

   
Tiếp theo là một câu nói chắc nịch, giống như một mệnh lệnh:

   
– Nghe đây, tớ đang ở Paris. Phải, ở giữa Paris của cậu. Tớ bận, tớ không có nhiều thời giờ, nhưng tớ rất muốn gặp cậu, ông bạn thân mến ạ. Hỏi thăm mãi mới có được số điện thoại của cậu đấy. Ngày mai ta gặp nhau, hả?

   
– Tất nhiên rồi – tôi vui vẻ – Cậu sang đây từ bao giờ? Và đang ở đâu, Tôtô?

   
Tôtô nói tên một khách sạn rất sang. Tên của nó ai ở Paris cũng từng nghe. Tôi không có lý do gì để lui tới một khách sạn mà tiền phòng một đêm ở đó đủ cho tôi ăn một tháng, tôi chưa điên. Tôi cũng chưa từng tới đó để gặp ai. Tôi không có, và chắc chẳng bao giờ có bạn giàu như thế.

   
– Tớ sẽ rảnh vào buổi chiều, từ 5 hoặc 6 giờ – Tôtô nói – Cậu biết chỗ khách sạn rồi chứ? Tớ sẽ chờ cậu trên phòng.

   
Tôi OK, nhẹ nhàng đặt ống nói xuống, nhưng không ngủ lại được.

   
Cái sảnh của khách sạn to bằng nửa sân bóng đá, sàn hoa cương bóng loáng, không khí sực mùi các thứ nước hoa, từ Chanel số 5 thơm phức cho tới Poison ngọt lợ, toả ra từ những vị khách lịch sự mang cặp da và giày da bóng loáng, những cặp chân thon dài của các tiểu thư và các phu nhân đẹp như người mẫu. Nếu không có cái nhìn đầy cảnh giác của người gác cửa có màu da Sadam Hussein và bộ ria Iosif Stalin.

   
May, khi nghe tôi hỏi tên Tôtô thì cô tiếp tân tóc vàng, da trắng như bột mì Hà Lan, rất xinh xẻo, đẹp như người mẫu, dịu dàng mỉm cười với tôi:

   
– Ồ, ông là bạn ông ấy? Ông ấy là khách quen của chúng tôi. Xin ông vui lòng ngồi đợi chút xíu.

   
Và cúi xuống bấm số gọi lên phòng.

   
Cách mạng thực vĩ đại. Nó chứa rặt những điều bất ngờ.

   
Nó, và chỉ có nó, mới tạo ra sự đổi đời thật sự, làm lộn tùng phèo tất tần tật mọi thứ. Thằng thành ông. Ông thành thằng. Một ông tiến sĩ luật tốt nghiệp ở Pháp khúm núm trước một anh cựu lơ xe chưa học xong bậc tiểu học. Tên ăn cắp vặt ở chợ Đồng Xuân ký quyết định bỏ tù một nhà văn hoá lớn. Tôi đã trông thấy những cảnh như thế, bằng mắt mình. Và không phải một lần.   

   
Quên chưa nói: Tôtô là biệt hiệu của bạn tôi. Tên thật của hắn là Tô, Nguyễn Văn Tô. Hồi trẻ, chúng tôi có thói quen đặt biệt hiệu cho nhau và rất khoái làm chuyện đó. Phần lớn biệt hiệu được đặt căn cứ vào đặc điểm hoặc tính cách của người. Nhưng cũng có những trường hợp chỉ là do vui miệng. Trước khi mang biệt hiệu Tôtô, hắn có một biệt hiệu Titô, tên của tổng thống Nam Tư, do liên tưởng đơn thuần về âm vị, không hàm ý nghĩa xấu tốt. Biệt hiệu này bị Tô phản đối kịch liệt. Titô lúc bấy giờ là “tên trùm xét lại, tên tay sai đế quốc, tên phản bội đê hèn”, theo cách gọi trong các tài liệu tuyên văn giáo huấn. Thì ra trong con người hắn vẫn sống mãnh liệt một công dân được dạy dỗ chu đáo về chính trị.

   
Khốn nỗi, khi có ai trịnh trọng gọi hắn bằng “anh Tô” thì lại xảy ra sự phạm huý nghiêm trọng. “Anh Tô” là bí danh của đương kim thủ tướng, mà đương kim thủ tướng lại là bạn của thủ trưởng chúng tôi. Ông này luôn miệng nhắc tới “anh Tô” trong mọi trò chuyện bằng giọng thân mật pha chút suồng sã. Không thể có một “anh Tô” nào khác bên cạnh một “anh Tô” đáng kính là bạn ông.

   
Thế là cái tên Titô nhục nhã được bỏ đi, được đổi thành Tôtô.

   
Ai là người nghĩ ra cái biệt hiệu ấy tôi không nhớ. Nhưng chắc chắn nó là một biệt hiệu xấu. Tôtô và Kiki là hai cái tên rất phổ biến được đặt cho những con chó. Những tưởng Tô sẽ gân cổ phản đối, ít nhất thì cũng như khi hắn bị gọi bằng Titô. Nhưng thật lạ, hắn cười hề hề, không giận chút nào, chấp nhận ngay lập tức.

   
“Một thằng mang tên loài chó, nhưng từng là bạn cậu”, hắn vừa nói thế.

   
Tôi  uống  rất chậm một ly cà phê, thay đổi cách vắt

chân năm bẩy lần, mới thấy Tôtô đĩnh đạc bước ra khỏi thang máy.

   
Không thể nào nhận ra người đàn ông phương phi với gương mặt bóng nhẫy, quần áo đúng mốt, đang bệ vệ đi về phía tôi là hắn, là Tôtô.

   
Nhưng đúng là Tôtô, không thể trật.

   
Chính hắn, với cặp mắt lồi, lưỡng quyền cao, miệng cá ngão, yết hầu nhô ra thụt vào liên tục cùng với mỗi tiếng nói. Cho dù mặt hắn giờ đây có bạnh ra gấp đôi trong sự no đủ. Cho dù thân hình hắn giờ đây có dùng chữ đẫy đà cũng không đủ. Hồi chúng tôi làm việc cùng, trong thời đại các loại tem phiếu và các thứ tiêu chuẩn mang tên các con số trong các thứ bìa ở các thứ cửa hàng, chưa bao giờ hắn béo tốt bằng một phần ba bây giờ.

   
Tôi đứng lên. Tôtô bước tới. Nhìn nhau trân trân. Hắn cười tươi. Tôi cũng cười, nhưng không được tươi như hắn. Nhưng chúng tôi chỉ ôm lấy nhau vừa đủ chặt như hai quan chức thuộc hai quốc gia không thù hằn mà cũng chẳng thân thiện, trong một nghi thức ngoại giao cứng đờ.

   
Tôi nghĩ mình không nên ôm ông bạn năm xưa quá chặt khi chưa biết được sau bao nhiêu nước chảy qua cầu hắn sẽ đối xử với mình thế nào. Quả vậy, tôi thấy cái ôm đáp lại của hắn cũng vừa phải, nếu không nói là lỏng lẻo.

   
– Chú được tự do từ giờ đến đêm – ấy là Tô nói với một chàng trai cắp cặp đi theo sau hắn như một cái bóng – Nếu cần, tôi sẽ gọi.

   
Chàng  trai  gày  còm,  nước da mai mái, lí nhí vâng

dạ, liếc tôi một cái nhanh như chớp giật, rồi lập tức quay gót, đầu cúi thấp. Tôi hiểu hắn đánh giá đúng tôi, cho nên đã không chào. Tôtô ôm tôi không chặt cũng là phải lẽ. Đàng sau Tôtô là thuộc cấp của hắn, mà có thể cũng còn  những kẻ khác nữa, đang chăm chú theo dõi và xét nét đánh giá những mối quan hệ của hắn.

   

Dáng đường bệ của Tôtô cho tôi ấn tượng về một quan cách mạng, to tới mức nào tôi không biết, nhưng chắc chắn to. Trong khi tôi nghĩ về Tôtô như thế thì hắn cũng bận bịu với sự phỏng đoán về đẳng cấp xã hội của tôi.

   
– Cậu đói bụng chưa? – giọng ân cần, Tôtô hỏi – Tối nay ta đi ăn với nhau nhé. 
– Chưa đến bữa tối mà. Cậu muốn ăn?

– Ta dạo quanh, rồi kiếm cái chén.

   
Khách sạn của Tô nhìn ra Champs Élysée, đại lộ lớn nhất của Paris chạy từ cổng chào Kháng Chiến cho tới Khải Hoàn Môn. Ra khỏi cánh cửa quay bằng kính dày để xuống hè, Tôtô đi những bước thoải mái giữa đám khách thập phương, tươi cười như thể Paris nằm dưới quyền uỷ trị của hắn theo một nghị quyết của Liên Hiệp Quốc.

   
– Cậu chỉ già đi chứ đéo thay đổi mấy – Tôtô nhận xét bằng giọng dửng dưng – Tớ có biết tin cậu đi dạy ở Algérie rồi khi về qua Pháp thì tụt lại, xin tị nạn…

– Ờ… – tôi xác nhận.

– Tại sao cậu lại làm như thế? Ở trong nước người ta có đối xử tệ cho lắm với cậu đâu. Tớ nghe nhiều tin đồn về cậu. Có cả tin cậu được CIA bảo trợ để… hề hề… để làm công việc cho nó, hề hề, bằng… chuyên môn của cậu. Hoá ra đéo phải.

– Hừm – tôi nhếch mép.

– Mà hình như ở đây cậu đéo… làm ăn được gì – Tôtô nói – Có khi còn gặp khó khăn nữa, phải không?

   
Tôtô đánh giá không sai. Chỉ cần nhìn bộ quần áo tầu tầu không được giặt ủi thường xuyên hắn cũng thấy tôi thuộc tầng lớp nào. Trong cái nhìn của hắn tôi thấy có ánh thương hại.

   
Tôi thấy cần phải ra ngay lập tức một bản tuyên bố. Cho nó rõ. Cho hết mọi ngộ nhận.

   
– Tớ sống bình thường – tôi lạnh lùng – Dễ chịu là đàng khác. Cậu đã biết tính tớ. Vẫn như trước, tớ là thằng không đòi hỏi nhiều, vì thế không vất vả trong lựa chọn. Tớ có con đường của tớ. Nó khác con đường của cậu. Cảm ơn cậu đã không gọi tớ là tên phản bội. Có phải ở trong nước người ta gọi những thằng bỏ đi như tớ bằng cái mỹ từ ấy không? Vậy thì cậu hãy nghe đây, cho nó rõ: tớ chẳng mang ơn thằng nào thì tớ không thể phản bội thằng nào. Tớ xin đủ tất cả những bản khai lý lịch, những cuộc cật vấn ở phòng tổ chức về tam đại nhà mình, về tư tưởng xét lại, về quan hệ với bọn “Nhân văn

– Giai phẩm”…

   
Tôtô lơ đãng nhìn phố phường, bình thản nghe tôi nói.

   
– Chuyện xưa rồi. Xưa lắm rồi. Tớ không tìm cậu để nói những chuyện đó – hắn đặt tay lên vai tôi – Cậu hoàn toàn lạc hậu với tình hình trong nước. Rất rất rất  lạc hậu.  Lạc hậu  lắm  lắm.  Tất cả đã khác rồi.


Bây  giờ  là  một  thời  đại  mới.  Mới  hoàn  toàn.  Cậu không tin hả?

  
Tôi ân hận vì đã nói với hắn bằng giọng hơi nhiều gay gắt.

   
– Bây giờ người ta đéo có thời giờ để hỏi cậu những câu lẩm cẩm đã hết đát từ lâu về giáo điều hay xét lại nữa đâu – hắn nói tiếp, bằng giọng giảng giải – Cậu muốn giáo điều mấy cũng được, muốn xét lại bao nhiêu cũng xong. Người ta chỉ quan tâm tới cậu nếu như cậu có ý định làm lung lay cái địa vị của họ mà thôi. Ngoài ra họ mặc. Nếu như có ai đó hỏi cậu câu nào thì tớ dám chắc nó chỉ hỏi cậu có bao nhiêu đô-la, chả là cậu từ nước ngoài về mà. Nó hỏi thế không phải để chôm của cậu đâu, đừng có nhầm. Tiền của cậu liệu được mấy nả? Việt kiều nói chung rách bỏ mẹ, so thế đéo nào được với các đại gia trong nước. Nếu người ta có chút quan tâm thì phải hiểu là người ta muốn xét xem cậu có xứng đáng được giao thiệp với họ không? Thế thôi. Thật đấy, đéo có xã hội nào thoáng bằng Việt Nam bây giờ, ngay cả mấy anh đế quốc già nua như Pháp, như Đức. Cậu cứ nhìn vào tớ đây này, tớ vẫn sống được, còn sống phây phây nữa, sống đẹp nữa là đằng khác, hề hề…

   
Hắn nói không sai. Tất cả đã khác xưa. Bằng chứng là hắn đang nện gót giày cồm cộp bên cạnh tôi, giữa “kinh thành ánh sáng”, như chúng tôi thường gọi Paris trong những mộng mơ thời trai trẻ.

   
Hắn đưa mắt nhìn ra cái cột đá Ai Cập thẳng đuột ở quảng trường Concorde.

   
– Cậu nói tiếng Tây nhờ ai đó bấm cho mấy pô cậu với tớ làm kỷ niệm. Đừng để ý thái độ của tớ khi có mặt mấy thằng dưới quyền. Đi với chúng nó tớ vẫn cứ phải giữ ý. Đéo tin được chúng nó đâu... Mình mà sa cơ ngã xuống là chúng nó giẫm lên xác ngay. Cậu là bạn tớ, với bạn, tớ có thể sống thật…

   
Tôtô nói bằng giọng tâm sự.

   
Tôi như ở trong một giấc mơ quái quỷ, chẳng có gì đang diễn ra giống thật.

   
– Cậu cũng đã khác xưa – tôi nói – Khác lắm.

   
Tôtô ngửa mặt lên trời mà cười:

   
– Hề hề… Tớ vẫn là tớ thôi. Khác là khác cái bề ngoài. Cậu cũng không khác. Cậu vẫn i xì là cậu ngày trước. Cậu là một thằng lãng mạn thâm căn cố đế. Cậu chẳng bao giờ sống với thực tế. Cậu sống với nó, nhưng lại không thừa nhận nó. Cho nên cậu luôn luôn thất vọng. Và thất bại. Cậu luôn luôn cho rằng cuộc đời phải thế này thế nọ như cậu hình dung, không phải theo sách này thì sách khác. Cậu đã thích chủ nghĩa cộng sản, đúng không nào? Vì cậu thèm khát một xã hội công bằng, đầy ắp tự do. Thế rồi cậu chán nó vì thấy nó trong thực tế đếch phải như cậu hình dung.

   
Hắn quở quang tôi một chặp. Với những câu chữ của một người cảm thấy mình có toàn quyền làm chuyện đó.

   
– Tớ muốn sống thật, như mình tin tưởng sẽ được sống như thế – tôi nói, ngậm ngùi nhớ lại một thời đã qua. Không biết hắn kiếm đâu ra ngần ấy khôn ngoan trong thời gian chúng tôi xa nhau? – Đúng là tớ lý tưởng hoá cuộc sống. Tớ lộn mửa khi nghe chúng nó xưng chúng nó chiến đấu vì hạnh phúc của đồng loại, trong khi chúng tự đặt mình lên trên đồng loại để vớt hết váng sữa mà đồng loại chỉ được phép đứng nhìn… 

   
– Ha ha! – Tôtô cười vang – Lãng mạn chửa? Cậu hãy chỉ cho tớ một thằng sống vì người khác coi. Tớ dám chắc cậu chẳng chỉ ra được lấy một thằng. Một nửa thằng cũng không. Ở đời này, cậu ơi, thằng đéo nào cũng chỉ sống vì nó hết. Cậu tưởng mấy ông lãnh tụ tuyên bố họ chiến đấu vì chủ nghĩa này chủ nghĩa nọ là họ nói thật sao? Đừng hòng. Đéo có cái ấy đâu, nói thật cho cậu biết, đéo có là đéo có.

   
Tôi nhớ ngày đầu tiên gặp Tôtô. Hắn từ Nghệ An ra, đen đủi, gày còm, gương mặt chất phác, giọng nói nhỏ nhẹ. Bây giờ hắn là một người Hà Nội, nhưng là người Hà Nội hiện đại, bằng chứng là hắn “đéo” liên tục, trong mỗi câu nói. Điều tôi còn thắc mắc là trong cái sự đổi đời đang diễn ra ở quê hương, cơ hội vàng nào đã làm cho hắn trở thành một ông lớn như bây giờ? 

   
Tôi bảo:

   
– Tớ hiểu cậu chứ. Từ ngày ấy kìa. Cậu là thằng giỏi. Cậu giỏi ở chỗ biết thích nghi hơn bất cứ đứa nào trong tụi mình. Ngay từ hồi ấy cậu đã chứng tỏ khả năng thích nghi với mọi thể chế, mọi thời đại. Cậu có thể sống ung dung bên Stalin, Mao Trạch Đông, Ceaucescu, thậm chí cả Hitler…

– Hề hề… Lại đá xéo rồi.

– Tớ còn nhớ chuyện cậu đã hăng hái thế nào trong vụ bắn ông chú ruột trong cải cách ruộng đất, chính cậu kể mà. Lại cũng cậu xung phong đi sửa sai cũng hăng hái như thế nào… ở một vùng khác. Cái ảnh Fidel Castro vẫn còn treo trong phòng đấy chứ?

– Hề hề… Cậu có một trí nhớ kinh hoàng. Bây giờ tớ có một ngôi nhà lớn nhiều phòng, và trong phòng ngủ của tớ toàn treo tranh gái đẹp. “Gu” tớ bây giờ khác. 

   
Tôi muốn bỏ về. Nhưng tôi không bỏ về. “Tha hương ngộ cố tri”, nỗi nhớ quê hương, hay là những kỷ niệm quá khứ giữ tôi lại với hắn, tôi không biết.

   
Tôi nhớ đến những năm chúng tôi cùng công tác tại một viện nghiên cứu vật lý hạt nhân. Hai thằng tôi làm việc chung một phòng. Cả hai đều là những đứa làm việc chăm chỉ. Hắn còn là một đứa hay giúp đỡ mọi người. Ai gặp khó cũng có thể tìm được ở hắn người đỡ đần. Cấp trên quý hắn, vì ngoài công tác khoa học với trình độ không xoàng, hắn có thể chữa đồ điện cho gia đình họ, hắn biết cả nghề mộc để chữa bàn ghế, biết thông cống cho nhà họ, biết đi xếp hàng từ sáng sớm để mua giúp họ một món hàng hiếm. Cũng chính hắn được thủ trưởng giao việc viết dự án chế tạo bom hạt nhân cho Việt Nam, theo một chỉ thị riêng của tổng bí thư đảng.

   
Tôi không được như hắn. Tôi là thằng không có ích cho các thứ cấp trên. Đã thế, tôi lại có cái tật mê văn chương, thích đọc sách, thích giao du với văn nghệ sĩ. Lĩnh vực hạt nhân là bí mật quốc gia cho nên cơ quan chúng tôi được nhà nước đặc biệt quan tâm. Ngoài nhân viên bảo vệ chính thức còn có nhan nhản công an mật dưới mọi vỏ bọc không cần thiết. Chúng tôi đều biết thừa cô văn thư, hay anh tổ chức kia là mật thám hoặc chỉ điểm, nếu chúng tôi quá ngu thì họ cũng úp mở cho chúng tôi biết họ là ai.

   
Điều tôi hoàn toàn không ngờ là những quan hệ cá nhân của những cán bộ quèn như tôi mà cũng bị đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của đảng. Anh bạn tôi yêu cô con gái một nhà tư sản, lập tức được phòng tổ chức gọi lên góp ý. Góp ý rồi, anh ta cứ yêu, thế là bị thuyên chuyển công tác, tất nhiên là một công tác không ra gì, ở một nơi không ra gì. Nhà thơ Xuân Diệu hay nhà văn Nguyễn Khải đến chơi với tôi thì chẳng ai nói. Nhưng chỉ cần một lần tôi mời hai nhà văn “có vấn đề” tới ăn cơm, rồi vì rượu say hai ông lăn ra ngủ lại, thế là mọi sự lộn tùng phèo. Phòng tổ chức gọi tôi lên kiểm điểm vì tội quan hệ với những phần tử xấu. May mà tôi có ông anh con bác làm trên bộ bảo lãnh nên mới lọt lưới trong đợt nhà nước tuyển cán bộ đi Algérie dạy học.

   
– Đừng cãi nhau với tớ. Đúng là tớ thích nghi được với mọi chế độ. Mà tại sao lại không thích nghi? Thích nghi là tốt chứ. Chúng ta là người, mà con người là động vật đặc biệt, nó duy nhất thích nghi được với mọi hoàn cảnh. Có con đéo nào được như thế? – Tôtô trích dẫn Dostoevsky – Mà thích nghi có gì khó?

   
Tôi nhún vai. Tôi bận tìm một tính từ chính xác cho loại người như Tôtô. Hình như người ta thường dùng cụm từ “khuyển nho”. Cứ nhập đại từ cinic của thế giới mà hay. Viết cinic hay xi-ních cũng được. Thói quen sẽ khẳng định chỗ đứng cho nó.

   
Trời tối dần. Đã lâu rồi tôi không có dịp ngắm cảnh Paris khi chiều xuống. Nó thật đẹp trong sự hoà trộn giữa ráng chiều và ánh đèn. Thành phố như được mạ vàng mười. Hoặc bằng giấy trang kim, nếu nhìn bằng con mắt yếm thế. 

   
Tôtô dẫn tôi vào một nhà hàng sang trọng. Chúng tôi kiếm một bàn trong góc khuất. Người bồi già hình như đã quen với Tôtô, lập tức xuất hiện, nụ cười thật tươi:

   
– Thưa, ông dùng gì ạ?

– Như mọi khi. Một chai vang tốt, anh chọn cho tôi. Nếu không có gì hay hơn thì Margaux Cru Bourgeois lâu năm. Và đừng quên patê gan ngỗng. Anh biết loại nào mà.

– Có ngay, thưa ông.


Trong bữa ăn, Tôtô hỏi tôi:


– Cái nhà của ông cụ cậu ở phố Huế, cậu tính sao?


Ngôi nhà lớn của gia đình tôi bị trưng dụng hồi cuộc chiến tranh kết thúc, tôi đã quên phứt. Không quên cũng chẳng được. Ông cụ bà cụ mất, tôi là người thừa kế duy nhất. Chính quyền cách mạng trưng thu ngôi nhà, cho tôi một căn phòng ở khu tập thể cơ quan làm chỗ ở. Căn phòng đầu hồi khá rộng, có hai cửa sổ, sáng sủa, mát mẻ, nhiều bạn đồng sự phát ghen. Ông thủ trưởng sáng suốt bèn ghép thêm một người vào ở cùng để tránh mâu thuẫn nội bộ. Người ở cùng tôi là Tôtô.

   
– Tớ quên cái nhà ấy rồi.

– Ơ hay, sao lại quên? Nhà nước bây giờ có chủ trương trả lại các nhà đã trưng thu hoặc trưng dụng đấy. Giấy tờ còn cả chứ?

– Còn. Để ở Hà Nội.

– Cậu nên đòi lại.

– Đòi sao được?

– Cậu làm cái giấy uỷ quyền. Tớ sẽ đòi cho cậu.

   
Tôi ngừng nhai, nhìn Tôtô. Hắn xắn miếng gan ngỗng ngọt như xắn một lát bơ tươi.

   
– Nhưng lấy lại làm gì? Tớ đâu có định về.

– Cậu dại bỏ mẹ. Cậu có biết bây giờ giá trị nó là bao nhiêu không?

  
Hắn nói một con số khủng khiếp, quy ra vàng và đô-la.


– Đã có bao nhiêu hộ đang ở đó. Đòi lại bây giờ để lấy tiền cho thuê à? Cậu có nhớ nhiều người đã phải xin hiến nhà vì tiền cho thuê không đủ để sửa chữa vặt không?

– Lại cũng xưa rồi. Cậu sẽ lấy lại được nhà bằng một bài toán. Bao nhiêu sẽ cho các hộ phải ra đi? Bao nhiêu để bôi trơn bộ máy, từ dưới lên trên? Bao nhiêu cho khâu trung gian? Còn lại là của cậu. Tối thiểu cũng còn vài trăm ngàn đô. Coi như của từ trên trời rơi xuống.

   
Tôi nhìn Tôtô. Hình như hai chữ trưởng thành không đủ để nói về hắn.

   
– Cậu ở khâu nào?

   
Hắn nhìn lại tôi bằng cặp mắt ráo hoảnh:

   
– Tất nhiên, ở khâu trung gian. Mặc dầu cậu là bạn, nhưng thời đại mới, đéo có thằng nào làm không cho thằng nào.

 – Tớ sẽ nghĩ về chuyện này.

   
Tôtô có vẻ không bằng lòng.

   
– Còn phải nghĩ gì nữa? Cậu may mắn có tớ là bạn.

   
Tôi không dám chắc mình may mắn. Nhưng không nói ra.

   
Lúc ăn tráng miệng, Tôtô lờ đờ nhìn tôi:

   
– Giấy uỷ quyền cậu nhớ phải lấy dấu công chứng. Công chứng ta, ở lãnh sự quán, không phải công chứng Tây để phải công chứng bản dịch, lằng nhằng. Tớ sẽ giúp cậu giải quyết cái nhà. Giúp là chính, chứ chuyện đòi nhà lủng củng vô cùng, mất thời giờ vô cùng. Được cái tớ đông quân, tớ sai chúng nó chạy. Tớ sẽ lấy giấy uỷ quyền vào lần sau, hả?

– Cậu hay qua Paris lắm à?

– Như cơm bữa. Tớ đi khắp. Thuỵ Sĩ, Đức, Tiệp, Ba Lan, Nga…

– Để làm gì?

   
Hắn nháy mắt với tôi:


– Biết nhiều thì chóng già. Hồi trước tớ phải nằm chết dí ở Lausanne và Genève. Buồn như chấu cắn. Bây giờ thì phải đi cả Nga. Moskva, Petersburg, Kiev, Minsk, Riga... Ở Nga bây giờ hỗn loạn. Nhiều bố già, không biết nên tin thằng nào, không biết thằng nào là quan trọng. Không như ở ta. Thế mà trước kia là nước xã hội chủ nghĩa anh cả đấy. Nhưng việc cần đi thì phải đi.

– Đi làm gì?


Tôtô cúi xuống mặt bàn, thì thào:


– Làm việc với các ngân hàng. Gửi mỗi nơi một ít.

   
Tôi trợn mắt nhìn Tôtô. Một lần nữa hắn làm tôi ngạc nhiên. Không lẽ bây giờ, mới có một ít năm, mà hắn đã kịp giàu đến thế?

   
Tôtô  đọc  được  ý nghĩ  trong mắt tôi. Hắn lấy khăn

chùi mép và nói:

   
– Cậu ngây thơ lắm. Tớ không giàu đến thế đâu. Nhưng có những người giàu cần đến tớ. Tớ đã dây máu thì tớ phải ăn phần.

– Gửi cả ở những ngân hàng không chắc chắn?


Hắn nheo mắt cười tôi:

   
– Bố khỉ. Tây nó đã dậy: trứng không nên để trong một giỏ. 

Chúng tôi đứng lên. Tôtô cho anh bồi bàn tiền bo giá trị bằng một bữa ăn của tôi. Người bồi rạp mình chào hắn.


Lúc chia tay, Tôtô khuyên tôi:

   
– Hãy chấp nhận thực tế như nó có. Đừng nghĩ tới những khái niệm trừu tượng. Dân chủ, tự do là cái khỉ khô gì. Vô ích. Chiến tranh qua rồi. Cậu lại muốn một cuộc chiến tranh mới hay sao? Cho dù là để lập một trật tự mới theo ý cậu, và những thằng dở hơi nào đó. Tớ thì tớ đéo muốn. Tớ chỉ muốn làm tiền. Cậu dằn vặt mình mãi làm gì? Tại sao cậu không thể coi đảng cộng sản như một triều đình phong kiến? Và Bộ Chính trị như một ông vua, hoặc một hoàng đế, với một tổng bí thư là cái đầu, số còn lại là tứ chi, còn các uỷ viên trung ương là hoàng tộc. Cậu cứ nghĩ như thế đi thì mọi sự sẽ trở thành đơn giản. Đất nước ta có bao nhiêu năm do vua chúa cai trị? Có chết ai đâu. Các cụ nhà ta vẫn sống, vẫn sinh con đẻ cái, hề hề, mới có chúng ta ngày nay chứ. Nếu cậu ở lại với triều đình, cậu cũng vẫn có một chức quan, không to lắm thì cũng to vừa đấy. Nếu có phải hô to “Thánh thượng vạn tuế!” thì ta hô, mất gì của bọ?

    
Tôi nín lặng. Tôi còn biết nói gì?

   
Tôtô ôm chặt tôi, hắn còn hôn lên hai má tôi nữa.

   
Có lẽ hắn yêu tôi thật. Tại sao lại cứ phải nghĩ rằng hắn tìm tôi chỉ vì ngôi nhà ở phố Huế?


À demain – hắn nói.

À demain – tôi đáp. Ờ thì hẹn gặp lại, ngày mai.


Nhưng ngày mai nào? Chẳng lẽ ngày mai sẽ lại vẫn như hôm nay?

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chị nhớ lại, vào một buổi sáng ngày cuối tháng 1 năm 1973, khi Chị đi lấy bản tin ở bên Macv về cho AP, chị thấy sao hôm nay văn phòng đông thế. Ký giả của AP và cả của NBC News bên cạnh cũng chạy qua chạy lại, Chị nghe ông chánh văn phòng nói: Viêt Nam sắp ngưng bắn rồi, sắp hòa bình rồi…” Văn phòng Associated Press xôn xao, từ ông chánh văn phòng đến các ký giả, nhân viên của AP đều hứng khởi với cái tin “Nóng bỏng” này. Chị thấy các phóng viên của các hãng thông tấn, hãng truyền hình ngoại quốc chạy hối hả sang nhau và chạy qua cả đài phát thanh Quân Đội Việt Nam để cập nhật tin tức viết bài…
Chị đi bằng xe hàng. Là dân Đà Lạt gốc Huế nên chị gọi xe đò là “xe hàng”. Đi xe hàng, tức là xe đò, là xe chở người và cả hàng chứ không chở riêng hàng. Tiếng Việt hay như vậy đó! Đến Gò Công rồi đi xe lam vào Đồng Nguơn. Ấp Đồng Nguơn. Không phải đây là lần đầu tiên chị được thấy cảnh đồng quê. Đồng quê miền nam hầu như đâu đâu cũng giống nhau. Nhưng có đi nhiều mới thấy mỗi nơi có một chút khác. Phải thế không? Hay chính là cảm giác của chị mỗi lần một khác?
Tôi ước mơ có một ngày nào đó, khi thanh bình thật sự trở về trên nước VN, khi chính thể CS hoàn toàn tan rã, khi con người công chính trở lại làm nền tảng trong xã hội mới, chúng ta sẽ trở về, những ngưới bạn từ thời xa xưa, cùng nhau làm lại một bữa tiệc Tất Niên, mời vong linh các thầy, các bạn, các anh em đồng đội đã chết trong khói lửa chinh chiến, trong các biến cố tang thương của đất nước, trong các trại tù, trên biển…cùng nhập tiệc. Kẻ đang sống cùng người thiên cổ bên cạnh nhau hoài niệm đến một miền thùy dương ngọt ngào nhân tính, một ngôi trường thân yêu giàu truyền thống giáo dục và y đức, một thành phố mến yêu thơ mộng. Để nghe những người quá cố tâm sự về cái chết oan khiên của mình. Được như vậy, hương hồn các vị đó sẽ sớm được siêu thoát và vĩnh viễn an nghỉ chốn nghìn thu. Và chúng ta đây giảm khắc khoải đau thương…
Tôi đã có bốn cái Tết trong trại Panatnikhom và Sikiew, Thailand. Tết đầu tiên thật nhiều kỷ niệm và bất ngờ, vì lúc đó chúng tôi vừa nhập trại trong khi còn hơn một tuần nữa là Tết. Tôi và ba cô bạn đi chung chưa kịp gửi thư cho thân nhân ở nước ngoài để ca bài ca “xin tiền”. Ai lo bận bịu đón Tết thì lo, còn chúng tôi thì lo đi mượn tiền để mua vài vật dụng cần thiết như tấm trải nhựa, tre nứa, dây nilon để làm “nhà” (phải “an cư” mới “lập nghiệp” tỵ nạn được chớ).Khoảng một tuần trước Tết, có một nhóm mấy thanh niên đến thăm vì nghe nói chúng tôi là dân Gò Vấp, nên muốn nhận “đồng hương đồng khói”. Họ là những người trẻ như chúng tôi, nên câu chuyện mau chóng trở nên thân mật và rôm rả
Hỏi thăm ông Hai bán hoa lay-ơn gốc Bình Kiến, nhiều người ngơ ngác hỏi nhau. Tôi lại rảo qua thêm mấy vòng chợ hoa, cũng vừa đi tìm ông Hai, cũng vừa ngắm hoa và ngắm những chậu bonsai bày bán cuối năm, cũng tìm lại mình của gần 20 năm trước, năm nào cũng cứ vào những ngày này, tôi theo ba tôi hóng gió đón sương không hề chợp mắt cùng gian hàng cây kiểng rất bề thế của ba ở đây.
Có lẽ những rộn ràng, hân hoan nhất trong năm không phải là "ba ngày tết", mà là những ngày cận tết. Bắt đầu vào ngày 23 tháng chạp, tối đưa ông Táo về trời. Tất cả mọi sinh hoạt đều hướng về việc chuẩn bị để đón một mùa xuân mới, chào đón nguyên đán và mấy ngày xuân trước mặt. Lúc nhỏ là mùi vải thơm của bộ đồ mới, mùi gạo nếp ngâm cho nồi bánh và hương thơm ngào ngạt cho sàng phơi mứt dừa, mứt bí, mứt gừng ngoài sân. Những đêm ngủ gà ngủ gật ngồi canh bên nồi bánh tét cùng với má, với gia đình xúm quanh. Mùi bếp lửa, mùi khói hương, mùi áo mới lan tỏa của tuổi thơ ngan ngát những ngày xa...
Người ta được nuôi lớn không chỉ bằng thức ăn, mà còn ở lời ru, tiếng hát, và những câu chuyện kể. Chú bé cháu của bà thích được bà ôm vác, gối đầu lên vai bà. Có khi bà mở nhạc từ chiếc nôi cho chú nghe thay cho lời hát, chiếc nôi chú bé đã nằm khi mới lọt lòng mẹ. Có khi bà hát. Bà không ru à ơi, nhưng âm điệu dân gian len vào trong từng lời hát. Chú bé mãi rồi ghiền nghe giọng hát của bà.
Lóng rày tôi hay tẩn mẩn viết về những hồi tưởng tuổi thơ, nhất là những côn trùng ngày xa xưa đó như chuồn chuồn, bươm bướm, ve sầu, dế mèn…Nhiều lúc ngồi nghĩ lẩn thẩn: tại sao vậy? Chắc đó là tâm trạng của người tuổi sắp hết đếm số, tiếc nuối những khi còn cắp sách tới trường. Cắp sách tới trường không phải là chuyện vui nhưng tuổi học trò thì vui thật. Lúc nào, khi nào, chỗ nào cũng toàn thấy chuyện vui chơi. Bạn chơi là người nhưng nhiều lúc là những côn trùng quanh quẩn bên người. Một ông bạn mới gặp nhướng mắt hỏi tôi viết về những bạn chơi nhiều hơn hai chân nhưng chưa thấy nhắc tới bạn của ông ấy. Đó là bọ ngựa. Ông này thuộc loại rắn mắt. Tôi không chung tuổi thơ với ông nhưng chắc ông cũng thuộc loại phá làng phá xóm. Ông kể chuyện ăn me chua trước mấy ông lính thổi kèn trong hàng ngũ khiến mấy ông thợ kèn này chảy nước miếng thổi không được. Tôi thuộc loại hiền nên không có bạn không hiền như bọ ngựa. Ông ta thì khoái bọ ngựa.
“Mày có vợ hồi nào vậy?” chưa kịp chào, mẹ đã ném ra câu hỏi bất ngờ. Tôi lặng thinh. Cục nghẹn trong cổ họng. Tiếng mẹ đã khàn nhưng nghe vẫn quen, vẫn gần gũi, nhưng đặm chút ngạc nhiên và thấp thoáng chút phiền muộn. Hệt như lần hỏi tôi mười mấy năm trước rằng Sao con trốn học. Đường dây điện thoại chợt kêu ù ù, như thể có máy bay hay xe vận tải cơ giới hạng nặng chạy qua chỗ mẹ đứng. Cũng có thể tại tai tôi ù. Tôi cũng không chắc lắm. Giọng nói mẹ chìm vào khối tạp âm hỗn độn. Mẹ lặp lại câu hỏi trong tiếng động cơ rì rầm. Rồi tất cả im vắng bất ngờ. “Hở con?” Mẹ nói.
Bê, con trai của Mẹ, đã theo Mẹ đến giảng đường từ thuở còn trong bụng Mẹ. Suốt thời gian đại học của Mẹ, Bê có nhiều đóng góp khác nhau theo từng thời kỳ. Khi Mẹ làm bài kiểm tra môn Đầu Tư và Tài Chính trong lục cá nguyệt đầu tiên, Bê mới ba tháng tuổi. Mẹ nhẩm tính, bài thi một tiếng rưỡi, đi về từ nhà đến trường thêm một tiếng rưỡi. Như vậy, Bê phải xa Mẹ ít nhất ba tiếng đồng hồ. Mẹ biết tính Bê, mỗi hai tiếng đồng hồ Bê oe oe đòi bú sữa Mẹ. Bê xấu đói lắm, đòi mà không được, Bê nhăn nhó um sùm. Ngày hôm đó, dì Thành đến giữ Bê. Dì Thành rất hồi hộp. Dì chưa có em bé, chẳng biết phải làm sao cho đúng ý Bê. Mẹ thi xong, phóng ra xe về nhà. Mẹ bắt đầu sốt ruột. Mẹ xa Bê đã hơn ba tiếng đồng hồ. Giờ này Bê chắc Bê đã thức giấc. Hy vọng Bê chịu khó nhâm nhi món trà thảo dược cho trẻ sơ sinh trong khi chờ Mẹ về. Thời đó chưa có điện thoại di động. Bởi vậy, có lo cũng để bụng, chứ Mẹ chẳng biết làm sao. Mẹ ba chân bốn cẳng chạy ba tầng lầu. Vừa đến cửa đã nghe tiếng Bê khóc ngằn ngặt.
Khi chơi những bản nhạc hay, Khang khóc theo giai điệu. Mước mắt chảy, tay kéo tình xuống lên, thân hình diệu dẻo theo cảm hứng. gần như mê cuồng, không biết mình là ai. Tôi cảm nhận được cái hay xuất thần nhưng không hiểu. Khang nói: -- “Cậu Út biết không, cái hay của âm nhạc làm cho lòng sung sướng nhưng cái đẹp của âm nhạc làm cho hồn cảm động. Khi món quà quá lớn, quá sức yêu, không thể cười, chỉ có thể khóc.” Tôi nghĩ, những lúc như vậy, Khang không chơi đàn, mà múa với hồn oan.
Tôi làm việc giữ xe cho một casino ở ngoại ô Toronto, gọi là parking attendant. Đó là nghề mà thanh niên ít chịu làm, phần vì lương thấp, mức tối thiểu, hồi đó 5 đồng một giờ, nhưng lý do chính là vì nó buồn. Bãi đậu xe nằm dưới hầm tối, không nhìn thấy người qua lại, nếu ở ngoài trời cũng sau lưng nhà cao tầng. Không ai làm chỗ đậu xe ở khung cảnh xinh đẹp, nơi ấy dành cho hàng quán. Đi học ban ngày, tôi làm thêm ban đêm là việc thích hợp, có thể thỉnh thoảng ngồi học bài. Nhân viên trong phiên gác trước tôi là cô gái bằng tuổi hoặc cùng lắm lớn hơn một hai tuổi, nhưng không hiểu sao cô vẫn có thói quen gọi tôi là em và xưng chị.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.