Hôm nay,  

Mai Tết

28/01/202313:38:00(Xem: 3236)
Truyện

hoa mai

Đám lá mai xanh um phủ kín mặt đất, cội mai già giờ nhìn như bộ xương khô, gốc sần sùi to chà bá mà các cành lại khẳng khiu, những nụ mai bé xíu và nhọn như đầu mũi tên. Thằng Thọ bắt cái ghế cao để lặt tiếp những cành lá còn sót ở trên cao, vừa lặt vừa lẩm bẩm:

 

- Búp quá trời luôn, tết này chắc nở rực rỡ luôn!

 

Thằng Thảo, em kề nó đang cào hốt đám lá mai, giọng trong trẻo cất lên:

 

- Anh hai, lá mai nhiều quá, giống như lá mùa thu ở xứ lạnh hén!

 

- Lo cào đi mậy! Bày đặt mơ mộng lá rụng mùa thu.

 

- Anh hai, nhà chị Mai bạn anh có hàng mai trước nhà đẹp bá cháy luôn, tết nào cũng nở vàng um cả sân. Mà nhà chị Mai toàn con gái hổng biết có ai lặt lá giùm không?

 

Thằng Thảo cà chớn, cà khịa với thằng Thọ. Nó biết anh nó thích nhỏ Mai, năm rồi thằng Thọ sang nhà nhỏ Mai lặt lá mai cả mấy buổi chiều. Nhỏ Mai học chung lớp với Thọ, hai đứa thường đi học chung đường, bề ngoài thì là bạn bè nhưng tình ý đã lắm rồi, tuy cả hai còn e dè. Đứa nào cũng giả đò vu vơ nhưng làm ánh mắt đã nói lên hết, đôi khi người ta cũng bắt quả tang hai đứa ôm nhau dấm dúi hôn lén sau gốc dừa.  Nhà thằng Thọ gần trường, vậy mà ngày nào nó cũng đèo con nhỏ ngược xuống xóm chợ sau đó mới quay về nhà. Thằng Thảo cứ mè nheo:

 

- Sao anh hai đèo chị Mai về nhà  chỉ chi cho xa vậy? Chỉ biết đạp xe mà!

 

Thằng Thọ nạt:

 

- Mầy con nít biết gì mà nói, lỡ Mai hư xe giữa đường rồi bị người ta thả dê thì sao?

 

- Vậy chứ anh đang thả dê chị Mai đó!

 

Thằng Thọ cốc đầu Thảo:

 

- Nói xàm hả mậy? anh đâu có thả dê, anh ga lăng nha mậy!

 

- Ủa, ga lăng là phải chở người ta đi học rồi phải chở dìa hả? Vậy thì mệt thấy mồ, em hổng thèm ga lăng đâu!

 

- Mầy ngon! mai mốt lớn rồi biết.

 

Hai anh em vừa nói và làm thêm một chặp nữa là tới bữa cơm, cây mai cũng lặt xong xuôi. Buổi chiều thằng Thọ qua nhà Mai để giúp lặt lá mai cho kịp tết, đã đầu tháng chạp rồi, lẽ ra phải lặt sớm hơn nhưng vì ba nhỏ Mai bận mà chị em nó thì đâu biết làm chuyện này. Cũng may thời tiết năm nay nắng ấm ít mưa nên có lặt lá trễ chút cũng còn kịp chơi tết. Thằng Thọ cặp kè với nhỏ Mai, hai đứa coi bộ xứng đôi lắm. Ai cũng nói nồi nào úp vung đó, con Mai mà ưng thằng Thảo thì rất hợp nhau, mặc dù hai đứa còn đang đi học. Thằng Thảo cao to, nhổ giò trổ mã từ năm lớp mười một, giờ trông nó chững chạc và đẹp trai như tài tử Hàn Quốc. Nhỏ Mai cũng đâu có kém cạnh gì, trắng da dài tóc, mặt chữ V xinh xắn không khác gì mấy ca sĩ Kpop. Bạn bè ghép đôi hai đứa là cặp đôi hoàn hảo.

Bà Thanh, má của Thọ kín đáo quan sát lén con Mai và bả có vẻ ưng bụng lắm. Bả nhìn thấy bóng dáng bả hồi trẻ qua dáng dấp con Mai. Hồi đó bả cũng trạc tuổi Mai bây giờ. Ông Thành, ba Thọ mê bả như trâu đực phải mùi trâu cái, cứ bám riết không rời. Học xong cấp ba, bạn bè lên Sài Gòn thi đại học, Thành thì không, nhất định đòi cưới vợ để lo làm ăn. Nội Thọ cũng khá giả và chìu con nên nhờ mai mối đi hỏi Thanh, thế rồi đám cưới cái rụp luôn, cuối năm ấy thì thằng Thọ ra đời vậy mà mãi bảy năm nữa mới có thằng Thảo.

 

Buổi chiều ông Thành đi công việc bèn kêu thằng Thọ làm mấy việc vặt trong nhà nhưng không thấy nó đâu. Thằng Thảo nhanh nhảu méc:

 

- Anh Hai qua nhà chị Mai lặt lá mai đó ba, ảnh nói nhà chị Mai hổng có đàn ông nên ảnh phải giúp.

Ông Thành giận lẫy:

 

- Cái thằng con nít, mới nứt mắt bày đặt! Việc nhà hổng làm mà đi làm việc nhà người ta.

Bà Thanh đang làm mứt tết dưới bếp bật cười:

 

- Cha nào con nấy, hồi nẳm ông cũng vậy mà!

 

Mấy dì đang phụ cắt tỉa bí đao, đu đủ để làm rim, cười chả chớt:

 

- Chời! Con hơn cha nhà có phúc đó anh Thành, con Mai đẹp gái và dễ thương nhứt xóm chợ, nó là hoa hậu đó nha. Thằng Thọ mà cua được nó là giỏi phải biết!

 

Ông Thành bực mình nhưng cũng phải phì cười:

 

- Học hành hổng lo, mới mấy tuổi đầu bày đặt yêu đương.

 

Chị Bốn Lành bên vợ cười giòn như bắp rang:

 

- Nòi tình nó vậy đó chú, hồi đó chú cũng trồng cây si cô Thanh quá trời, có thèm đi học đâu.

 

- Thì hồi đó khác, giờ khác.

 

Chị Bốn Lành chưa trả lời thì bà Bảy trầu đã hớt:

 

- Chú Thành nói vậy trớt quớt à nhen, nòi tình xưa nay y hệt chứ có khác gì đâu! Thời thế có sao thì nòi tình nó cũng chẳng thay đổi gì hết ráo. Ông bà mình nói:” Gái phải hơi trai như thài lài gặp cứt chó” còn trai mê gái rồi thì trời gầm cũng hổng buông.

 

Nói gì thì nói, cả nhà ai cũng thấy thích và ủng hộ thằng Thọ cặp con Mai. Ông Thành miệng nói vậy chứ trong bụng ổng cũng hãnh diện, bữa nhậu nào ổng cũng khoe thằng Thọ giống ổng, ổng tự hào nó cua gái giỏi tức là cũng ngầm ý bản thân ổng giỏi, hổng giỏi sao tán được bà Thanh, hồi đó bả đẹp nhất xóm đình, trai làng đứa nào cũng ngấp nghé. Thằng Thọ và con Thu bây giờ như sao y bản chánh của ổng với bà Thanh ngày xưa. Hai đứa nó còn đi học, hai nhà cũng chưa có qua lại nói năng gì nhưng mỗi khi gặp nhau đều rất thân mật, thậm chí khi người ngoài xúi vào làm sui thì hai bên cùng cười như thể chắc chắn sẽ là vậy.

 

*

 

Chuyện thằng Thọ lặt lá mai cho nhà nhỏ Mai giờ như thương hiệu bay từ xóm trên xuống xóm dưới, từ xóm chùa ra xóm chợ. Ai cũng khen thằng Thọ với con Mai, nhiều người còn nói vô mong sao hai bên tác hợp cho Thọ và Mai. Tuy nhiên cũng có người nghi ngờ:

 

- Thằng Thọ đẹp trai, học giỏi nay mai lên sài Gòn học chắc gì còn nhớ gái dưới quê?

Tiếng đến tai bà Thanh, bả chép miệng:

 

- Hơi đâu miệng đời, chín người mười ý!

 

Những ngày tháng chạp rộn ràng, công việc bù đầu. Thọ ngoài giờ đi học còn phụ má đi lấy nước để làm rim, nước giếng ở nhà bị phèn không làm rim mứt được, nhưng hễ rảnh ra là nó chạy tọt xuống nhà con Mai làm cái này phụ cái kia, riết rồi ai cũng cười:

 

- Điệu này chắc giống ông Thành, cưới vợ sớm cho rồi!

 

Hăm lăm tháng chạp, xóm chợ xôn xao có việt kiều dìa ăn tết, người ta đồn Việt kiều sang lắm, quần áo bảnh bao, tiền bạc rủng roẻn, ăn nhậu giàn trời luôn. Hổng biết ai làm mai dắt mối dẫn đến nhà Mai. Anh Việt kiều trạc bốn mấy, tóc hai bên mai và phía sau ủi thẳng, mái phía trước để dài chải vắt ngược ra sau, quần áo láng lẫy người ta nói đồ hiệu. Việt kiều đeo dây chuyền to tổ chảng, lắc tay, đồng hồ đủ thứ, người xức dầu thơm muốn bể lỗ mũi luôn. Nghe người ta nói Việt kiều tên Kevin N, ở bển làm kỹ sư hóa chất. Má Mai có vẻ hơi khớp trước mối Việt kiều, ngồi khép nép nghe Kevin và người nhà của anh ta nói và cứ dạ dạ liên tục, thỉnh thoảng cũng nói vài câu lấy lệ. Mai ngồi bên cạnh bối rối, có lẽ cũng hơi khớp trước sự sang chảnh của Việt kiều. Mai muốn rút lui xuống bếp nhưng má Mai nắm tay giữ lại. Kevin thì nhìn chằm chặp một cách thô thiển, anh ta quan sát Mai từ đầu tới chân như thể khách đi xem hàng. Kevin bất chấp cả phép lịch sự tối thiểu trong buổi đầu gặp nhau. Anh ta huyên thuyên đủ thứ, khoe có nhà, có xe, có cơ sở làm ăn, khoe đi du lịch đó đây… Cả má Mai và Mai ngồi thụ động chứ biết nói gì, vả lại những điều anh ta nói sao xa lạ với xóm chợ này quá nên có biết đúng sai đâu mà góp lời. Mai tỏ vẻ khó chịu, gỡ tay má  ra và lui xuống nhà sau, sau buổi gặp ấy, má Mai khuyên nhủ:

 

- Thằng đó coi bộ sang trọng và giàu có, lấy nó mai mốt qua Mỹ sống sung sướng, một bước lên xe xuống cộ, thoát khỏi xóm chợ này!

 

Mai vùng vằng:

 

- Con hổng lấy Việt kiều, anh ta có tiền mặc kệ ảnh, cái mặt thấy ưa hổng vô.

 

- Thì cái lối Việt kiều nó khác mình, mình ưng Việt kiều rồi từ từ mình cũng sẽ giống họ thôi!

 

- Ưng sao được, hổng có tình yêu sao sống được hả má?

 

- Nhiều người muốn lấy Việt kiều để được đi Mỹ mà đâu có được. Mình được anh ta để ý chọn cũng là may mắn, đừng bỏ lỡ cơ hội.

 

- Đi Mỹ thì ai hổng ham nhưng con thì không lấy Kevin N đâu!

 

- Thằng Thọ cũng dễ thương, đàng hoàng nhưng cơ hội có một đành phải chọn, dễ gì được đi Mỹ hả con?

 

- Con nói rồi, con không ưng Việt kiều!

 

Hôm sau Thọ ghé nhà Mai, Thọ cảm nhận má Mai bữa nay có vẻ khang khác, chỉ chào nhẹ chứ không vồn vã như mọi khi, trong lòng thấy cũng hơi nhột nhưng không biết nói sao. Thọ xin phép cho Mai đi coi hội hoa xuân, má Mai tỏ ra miễn cưỡng chứ không vui vẻ. Hai đứa đi giữa một rừng hoa muôn màu muôn vẻ, chơ hoa tết hôm nay vào cao điểm rồi, từ giờ cho đến tối ba mươi là lúc quyết định nhà vườn có lời hay thu hồi được vốn hay không. Mai cầm tay chặt tay Thọ, mắt nhìn xa xa theo dãy hàng bông giấy, miệng nói nhỏ:

 

- Hôm qua nhà em có Việt kiều đến thăm, bà Ba Bụng làm mai. Má em muốn gả em cho Việt Kiều.

Thọ chưng hửng, trong lòng bối rối cực độ, vừa thương vừa lo không biết sự thể ra sao. Tâm tư Thọ ngổn ngang những cảm xúc không biết nên nói gì nên nín thinh, cả hai cứ như thế đi giữa hội hoa mà không nói gì thêm, chừng mươi phút sau thì Thọ cố gắng phá vỡ cái không khí như đông cứng giữa hai đứa:

 

- Vậy ý em thì sao?

 

Thọ hỏi mà lòng lo sợ pha lẫn chút ghen, Thọ thương Mai, thương dữ lắm, tất nhiên là Thọ không muốn bất cứ ai khác được quen Mai chứ đừng nói chi là sẽ cưới Mai. Thọ nói trong sự lo âu và phập phồng chờ Mai, chẳng cần đợi lâu. Mai dùng cả hai tay để bóp bàn tay Thọ:

 

- Em không lấy Việt kiều.

 

Thọ im lặng, lòng mừng thấp thỏm nhưng sự hồi hộp đâu dễ cất bỏ đi. Mai không thấy Thọ nói gì bèn ghẹo:

 

- Sao im lặng vậy? Anh ghen hả?

 

Thọ chối và bày tỏ thật thà:

 

- Đâu có ghen, chỉ sợ mất Mai thôi!

 

- Em tin anh nên mới nói cho anh nghe, Việt kiều mặc kệ Việt kiều, em nhất định không ưng Việt kiều!

Mai bẹo má Thọ, nhìn vào mắt Thọ:

 

- Anh ghen sao? Hổng tin em?

 

Thọ xưa nay vốn không giỏi nói, giờ lại càng thấy khó nói hơn nên lời cụt lủn:

 

- Đâu có ghen, mà lấy Việt kiều đi Mỹ cũng sướng.

 

Nói thì nói vậy chứ lòng Thọ như lửa đốt, Thọ sợ mất Mai, Thọ sợ cái hào nhoáng bóng bẩy của Việt kiều sẽ làm Mai xiêu lòng. Thọ cũng biết người ta đồn đãi Việt kiều nhiều tiền lắm, mà ở đời thì nhiều tiền thì gì cũng mua được. Cái mác Việt kiều có giá cao và hấp dẫn, bao nhiêu con gái phụ tình để lấy Việt kiều cho bằng được. Nước Mỹ xa xôi tận đâu đâu nhưng nó có ma lực kinh khủng, ai cũng muốn lấy Việt kiều để được đến nước Mỹ. Người ta sẵn sàng bỏ người mình yêu để lấy người mình không yêu cũng vì để được đi Mỹ. Lòng Thọ bất an, Mai cũng cảm nhận được, biết Thọ đang lo lắng và đau buồn. Mai bóp chặt tay Thọ hơn nữa, dường như muốn truyền tín hiệu yêu thương thật lòng của mình để Thọ hiểu. Một lần nữa Mai nói như đinh đóng cột:

 

- Em không lấy Việt kiều đâu, anh đừng lo!

 

- Ý má em thì sao?

 

- Dĩ nhiên là má em muốn em lấy Việt kiều,  ba má nào mà hổng muốn con cái mình có cuộc sống giàu sang sung sướng. Tuy nhiên má em không thể ép em được, em chỉ yêu mình anh thôi! Mình học xong sẽ cưới nhau nha, sống với anh dù nghèo em cũng hạnh phúc!

 

Thọ bất thần ôm chầm lấy Mai bất chấp đang ở giữa thiên thanh bạch nhật, giữa chợ hoa với biết bao người qua lại. Thọ thì thầm như khóc vì xúc động cực độ:

 

- Cảm ơn em, anh thương em nhiều lắm! Trong lòng anh chỉ có em thôi, đôi mắt em trong hồn anh, mùi thơm của em trong giấc ngủ anh.

 

- Em cũng thương anh nhiều lắm, mai này sống với anh dù ăn mắm em cũng vui lòng.

Hai đứa mãi tâm sự mà quên cả ngắm hoa, chợ hoa cuối năm đông đảo và ồn ào dễ sợ. Người bán rao hàng chào mời, người mua trả giá ì xèo. Người đi ngắm hoa chen chân khắp mọi ngả đường. Thọ cầm chặt tay Mai, hai đứa đi giữa dòng người trẩy hội hoa xuân mà lòng hạnh phúc vô bờ. Thọ đang bay bổng, nên thấy cả chợ hoa này không có loại hoa nào đẹp bằng hoa của lòng mình, Mai là đóa hoa đẹp nhất trần đời.

 

Sáng mùng một tết, mai vàng nở rực rỡ cả sân nhà Thọ, hàng mai nhà Mai cũng rạng rỡ sáng cả một vùng. Mai chưng trong phòng khách làm căn phòng như thể cả màu xuân đang hiện hữu. Sắc mai tươi rói trên gương mặt Thọ và Mai. Hai đứa xúng xính trong tà áo dài có họa tiết cành hoa mai. Hai đứa lễ ông bà xong xin phép đi trẩy hội xuân.

 

– Tiểu Lục Thần Phong

(Ất Lăng thành, 0123)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bây giờ trời đã tối, nhiều người đi ngủ sớm. Bọn trẻ học bài dưới bóng ngọn đèn dầu ở ngoại ô, ngọn đèn đường gần bờ sông. Trước hàng rào kẽm gai, một người lính mang súng đi đi lại lại, một đôi tình nhân đi chơi về muộn. Ngọn đèn hỏa châu sáng bừng góc trời một lát rồi tắt. Người yêu quê hương đã đi ra khỏi mảnh đất của những hận thù dai dẳng mà vẫn muốn trở về. Người nông dân muốn cày lại thửa ruộng của mình. Người thợ sửa đồng hồ muốn ngồi lại cái ghế vải nhỏ thấp của mình sau tủ kiếng bày đồng hồ cũ và mới. Lò bánh mì chiếu sáng nhấp nhô bóng những đứa trẻ bán bánh mì đứng trước cửa sổ với bao tải lớn đựng bánh nóng mới ra lò. Con chim về ngủ muộn biến mất trong bụi cây chỗ anh đứng.
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.