Hôm nay,  

“Mợ”*

17/02/202300:00:00(Xem: 3611)

Truyện ngắn “Sweetness” của Toni Morrison - Nobel Prize 1993.

 

Ngu Yên dịch

Toni Morrison
Toni Morrison - Tiểu thuyết gia Hoa Kỳ (1931 – 2019), Giải National Book Critics Circle Award, 1977. Giải Pulitzer Price for Beloved, năm 1987. Nobel Prize năm 1993. Lãnh huy chương Medal of Freedom năm 2012. Hiện diện trong National Women’s Hall of Frame, năm 2020.
 
Không phải lỗi của tôi. Vì vậy, tôi không thể gánh chịu. Tôi chẳng những không làm chuyện này mà còn không biết nó xảy ra như thế nào. Không mất hơn một giờ, sau khi họ kéo con bé ra khỏi giữa hai chân, lúc đó, tôi mới nhận ra có điều gì đó không ổn. Thực là sai lầm. Nó đen đến nỗi làm tôi kinh sợ. Đen nửa đêm, đen Sudan. Tôi có màu da ít đen, tóc đẹp, gọi là vàng lợt, và bố của Lula Ann cũng vậy. Không ai trong gia đình có màu da gần giống màu này. Tar là người gần giống nhất mà tôi có thể nghĩ đến, nhưng tóc của nó không hợp với da. Khác hẳn - thẳng nhưng xoăn, giống như tóc của những bộ lạc khỏa thân ở Úc. Có thể nghĩ con bé là một nhân vật tổ tiên đầu thai, nhưng đầu thai cái quái gì? Các người nên gặp bà tôi; bà theo phe người da trắng, kết hôn với đàn ông da trắng, không bao giờ nói lời nào với bất cứ con cái của bà. Nếu bà nhận được bất kỳ lá thư nào từ mẹ tôi hoặc từ các dì, chưa kịp mở, bà đã gửi trả lại ngay. Cuối cùng họ nhận được thông báo không có tin nhắn và để cho bà yên. Hầu như tất cả các loại người da trắng lai đen và lai một phần tư máu lạ đã làm nhu vậy trước đây— nghĩa là có loại tóc phù hợp. Các người có thể tưởng tượng có bao nhiêu người da trắng mang trong mình dòng máu Da đen không? Đoán. Tôi nghe nói hai mươi phần trăm. Mẹ tôi, Lula Mae, lẽ ra có thể sống dễ dàng, nhưng bà đã chọn không làm như vậy. Bà nói với tôi cái giá phải trả cho quyết định đó. Khi bà và cha tôi đến tòa án để làm lễ kết hôn, có hai cuốn Kinh thánh, và họ phải đặt tay lên cuốn dành riêng cho người da đen. Cuốn còn lại dành cho bàn tay người da trắng. Kinh Thánh! Có thể vượt lên nó không? Mẹ tôi là quản gia cho một cặp vợ chồng da trắng giàu có. Họ ăn mọi bữa ăn do bà nấu và khăng khăng đòi bà kỳ lưng khi ngồi trong bồn tắm, và chỉ có Chúa mới biết họ bắt bà làm những việc thân mật nào khác, ngoại trừ việc không đụng đến cùng một cuốn Kinh thánh.

Một số người có thể nghĩ, thật tệ khi tự phân nhóm theo màu da—càng lợt càng tốt—trong các câu lạc bộ xã hội, khu dân cư, nhà thờ, hội nữ sinh, thậm chí cả trường da màu. Nhưng làm thế nào khác để chúng ta có thể giữ một chút phẩm giá? Còn cách nào khác để không bị khạc nhổ trong hiệu thuốc, bị thúc cùi chỏ ở bến xe buýt, phải đi bộ trong rãnh nước để người da trắng có toàn thể vỉa hè, bị tính tiền xu ở cửa hàng tạp hóa cho một chiếc túi giấy, mà nó miễn phí cho người da trắng mua hàng? Đừng quan tâm đến những tên gọi. Tôi đã nghe tất cả những điều đó và nhiều, nhiều hơn nữa. Nhưng vì màu da của mẹ tôi, bà không ngừng thử mũ hoặc sử dụng phòng vệ sinh nữ trong các cửa hàng bách hóa. Và cha tôi có thể thử giày ở phần phía trước cửa hàng, không phải ra phòng phía sau. Bố mẹ tôi không uống từ đài phun nước "Chỉ dành cho da màu", ngay cả khi họ sắp chết khát.

Tôi ghét phải nói ra điều này, nhưng ngay từ đầu trong phòng hộ sinh, đứa bé, Lula Ann, đã làm tôi xấu hổ. Làn da khi mới sinh của con bé nhợt nhạt như tất cả trẻ sơ sinh, kể cả trẻ em châu Phi, nhưng nó thay đổi nhanh chóng. Tôi tưởng mình phát điên khi nó chuyển sang màu xanh đen ngay trước mắt. Tôi biết mình đã phát điên trong một phút, bởi vì—chỉ trong vài giây thôi—tôi đã trùm chăn lên mặt nó và ấn chặt xuống. Nhưng không thể làm thế, dù đã ước gì con bé không sinh ra với màu sắc khủng khiếp đó. Thậm chí, còn nghĩ đến chuyện đưa nó đến trại trẻ mồ côi ở một nơi nào. Nhưng sợ trở thành một trong những bà mẹ để con ở bậc thềm nhà thờ. Mới đây, nghe nói, một cặp vợ chồng ở Đức, da trắng như tuyết, sinh đứa con da ngăm đen mà không ai giải thích được. Tôi tin là sinh đôi - một da trắng, một đen, nhập lại. Nhưng không biết nếu chuyện này là sự thật. Tất cả những gì biết được, đối với tôi, cho con bé bú giống như để con chim chích chòe mút vú. Tôi chuyển sang cho nó bú bình ngay khi về đến nhà.

Chồng tôi, Louis, là một người khuân vác, khi anh bước ra khỏi chỗ làm, anh nhìn như thể tôi thực sự bị điên và đứa bé giống như đến từ hành tinh sao Mộc. Anh không phải là người hay chửi thề, nhưng khi ấy, anh nói, “Mẹ nó! Cái quái gì đây?” Tôi biết chúng tôi đang gặp rắc rối. Đó là điều đã xảy ra - điều đã gây mâu thuẫn giữa tôi và anh ta. Nó đã phá vỡ cuộc hôn nhân thành từng mảnh.

Chúng tôi có ba năm tốt đẹp sống bên nhau, nhưng khi con bé chào đời, anh đổ lỗi cho tôi và đối xử với Lula Ann như thể người xa lạ—hơn thế nữa, là một kẻ thù. Anh chưa bao giờ chạm vào nó.

Tôi không bao giờ thuyết phục anh ta, tôi chưa bao giờ lẳng lơ với người đàn ông khác. Anh ta tin chắc như đinh đóng cột là tôi nói dối. Chúng tôi tranh luận mãi cho đến khi phải nói, màu da đen của con bé đến từ phía gia đình anh, không phải bên tôi. Đó là lúc mọi chuyện trở nên tồi tệ, tệ đến mức anh đứng dậy, bỏ đi, còn tôi phải tìm một nơi khác rẻ tiền để thuê ở. Đã làm hết sức mình. Tôi biết đủ, không đưa con bé theo khi đến nộp đơn cho chủ nhà, gửi nó cho đứa em họ tuổi vị thành niên giữ giùm. Dù sao thì tôi cũng không đưa nó ra ngoài nhiều, bởi vì, khi đẩy nó trong xe nôi, mọi người sẽ cúi xuống nhìn vào để nói điều gì đó tốt đẹp rồi giật mình hoặc nhảy lùi lại trước khi cau mày. Việc như vậy gây tổn thương. Tôi có thể làm người trông trẻ nếu màu da của chúng tôi bị đảo ngược. Chỉ là một người phụ nữ da màu - thậm chí là một người da vàng lợt - cố gắng thuê nhà ở một khu đàng hoàng trong thành phố đã đủ khó rồi. Quay trở lại những năm 1990, khi Lula Ann ra đời, tuy luật cấm phân biệt đối xử với người đi thuê nhà, nhưng ít chủ nhà chú ý đến luật này. Họ tạo ra lý do để gạt người da màu ra ngoài. Nhưng tôi đã gặp may với ông Leigh, mặc dù biết ông ấy đã tăng tiền thuê nhà bảy đô la so với những gì ông đã quảng cáo, và ông ấy sẽ nổi cơn tam bành nếu chậm trả tiền một phút.

Tôi bảo con bé gọi tôi là “mợ” (sweetness) thay vì “mẹ” (mother) hay “má” (mama). Như vậy, an toàn hơn. Con bé đen như vậy và đôi môi quá dày mà gọi tôi là “mẹ” sẽ khiến mọi người bối rối. Bên cạnh đó, nó có đôi mắt có màu sắc ngộ nghĩnh, màu đen như mỏ quạ với ánh xanh—điều gì đó rất phù thủy ở trong đôi mắt.

Vì vậy, chỉ có hai chúng tôi trong một thời gian dài, và không cần phải kể cho ai biết đời sống của người vợ bị bỏ rơi khó khăn như thế nào. Tôi đoán Louis cảm thấy xấu xa sau khi bỏ rơi chúng tôi, bởi vì vài tháng sau, anh ấy biết nơi tôi  ở và bắt đầu gửi tiền mỗi tháng một lần, mặc dù tôi chưa bao giờ yêu cầu, cũng không đến tòa án để xin trợ cấp. Các phiếu chuyển tiền năm mươi đô la của anh và công việc ban đêm của tôi tại bệnh viện đã khiến tôi và Lula Ann không được hưởng phúc lợi. Đó là một điều tốt. Tôi ước họ ngừng gọi là phúc lợi và quay trở lại danh từ họ đã sử dụng khi mẹ tôi còn thiếu nữ. Hồi đó, họ gọi là "cứu trợ." Nghe có vẻ hay hơn, giống như đó chỉ là một khoảng thời gian nghỉ ngơi ngắn hạn trong khi điều chỉnh bản thân. Còn nữa, những nhân viên phúc lợi có ý nghĩa như nhổ nước bọt. Cuối cùng khi có việc làm và không cần đến họ, tôi kiếm được nhiều tiền hơn họ từng làm. Tôi đoán, sự hèn hạ đã lấp đầy những tấm séc lương ít ỏi của họ, đó là lý do tại sao họ đối xử với chúng tôi như những kẻ ăn xin. Đặc biệt là khi họ nhìn Lula Ann rồi quay lại nhìn tôi—như thể tôi đang cố gian lận hay làm chuyện giấu giếm gì đó. Mọi thứ đã tốt hơn nhưng vẫn phải cẩn thận. Rất cẩn thận trong cách nuôi dạy con bé. Tôi phải nghiêm khắc, rất nghiêm khắc. Lula Ann cần học cách cư xử, cách cúi đầu và không gây rắc rối. Tôi không quan tâm nó đổi tên bao nhiêu lần. Màu sắc của nó là cây thánh giá mà nó sẽ luôn luôn mang theo. Nhưng đó không phải là lỗi của tôi. Đó không phải lỗi của tôi. Không thể.

Ồ đúng rồi, đôi khi tôi cảm thấy tồi tệ về cách đối xử với Lula Ann khi con bé còn nhỏ. Nhưng các người phải hiểu: tôi cần bảo vệ nó. Con bé chưa biết gì về thế giới bên ngoài. Với làn da đó, không có lý do gì để trở nên cứng rắn hay hỗn xược, ngay cả khi mình đúng. Không phải trong một thế giới có thể bị tống vào trại giam dành cho trẻ em vị thành niên vì dám cãi lại hoặc đánh nhau ở trường, một thế giới mà bạn là người cuối cùng được tuyển dụng và là người đầu tiên bị sa thải. Con bé không biết bất kỳ điều gì trong số đó hoặc làn da đen của nó sẽ khiến người da trắng sợ hãi như thế nào hoặc khiến họ cười và cố lừa cô ấy ra sao. Tôi đã từng nhìn thấy một cô bé đen không bằng Lula Ann. Không quá mười tuổi bị vấp ngã bởi một trong nhóm các cậu bé da trắng. Khi cô cố bò dậy, một cậu bé khác đã đạp vào lưng và hất cô ra, nằm sấp bằng phẳng. Mấy đứa đó ôm bụng cười nghiêng ngả. Rất lâu sau khi cô ấy đi, họ vẫn cười khúc khích, rất tự hào về bản thân. Nếu không nhìn qua cửa sổ xe buýt thì tôi đã giúp cô ấy, kéo cô ra khỏi thùng rác màu trắng đó. Thấy chưa, nếu tôi không huấn luyện Lula Ann đúng đắn thì nó không biết cách băng qua đường và tránh những cậu bé da trắng. Nhưng những bài học tôi dạy cho nó đã được đền đáp, và cuối cùng nó khiến tôi tự hào như một con công xòe đuôi.

Tôi không phải là một mẹ tồi, các người phải biết điều này, nhưng tôi có thể đã làm một số điều gây tổn thương cho đứa con duy nhất vì tôi phải bảo vệ nó. Phải. Tất cả chỉ vì đặc quyền của làn da. Lúc đầu, tôi không thể nhìn qua tất cả màu đen để biết con bé là ai và chỉ đơn giản là yêu nó. Nhưng tôi đã làm. Thực sự làm. Tôi nghĩ bây giờ cô ấy đã hiểu. Tôi nghĩ như vậy.

Hai lần trước tôi gặp cô ấy, rất nổi bật. Loại táo bạo và tự tin. Mỗi lần cô đến gặp, tôi quên mất cô thực sự đen như thế nào vì cô đã tận dụng điều đó để làm lợi thế cho mình trong bộ quần áo trắng đẹp đẽ.

Đã dạy cho tôi một bài học mà lẽ ra tôi phải biết từ lâu. Chúng ta nên làm gì với trẻ em, chuyện đó rất quan trọng. Và họ có thể không bao giờ quên. Ngay khi có thể, cô ấy bỏ mặc tôi một mình trong căn hộ tồi tệ đó. Cô tránh xa tôi hết mức có thể: trang điểm kỹ lưỡng và kiếm một công việc quan trọng ở California. Cô không gọi điện hay thăm hỏi nữa. Thỉnh thoảng gửi tiền và đồ đạc cho tôi, nhưng  không gặp nhau trong bao lâu, tôi không nhớ.
Tôi thích nơi này - Winston House - hơn là những viện dưỡng lão lớn, đắt tiền bên ngoài thành phố. Phòng của tôi nhỏ, ấm cúng, rẻ hơn, với y tá 24 giờ và bác sĩ đến hai lần một tuần. Tôi mới sáu mươi ba tuổi - còn quá trẻ để chăn thả gia súc - nhưng tôi đã mắc một số bệnh nan y về xương, vì vậy việc tự chăm sóc trở thành quan trọng. Sự buồn chán còn tồi tệ hơn cả sự yếu đuối hay đau đớn, nhưng các y tá rất đáng yêu. Một người vừa hôn lên má tôi khi tôi nói với cô, tôi sắp lên chức bà ngoại. Nụ cười và lời khen của cô phù hợp với một người sắp đăng quang. Tôi cho cô ấy xem bức thư trên giấy màu xanh mà tôi nhận được từ Lula Ann—à, con gái đã ký tên là “Cô dâu,” nhưng tôi không bao giờ chú ý đến điều đó. Lời nói của cô ta nghe có vẻ ngông cuồng. “Đoán xem, mẹ. Con rất, rất vui khi được thông báo tin này. Con sắp có em bé. Con quá vui mừng và hy vọng mẹ cũng vậy." Tôi cho rằng, điều hồi hộp là đứa bé chứ không phải cha nó, bởi vì cô  không hề nhắc đến anh ta. Không biết anh có đen như cô không. Nếu vậy, cô không cần phải lo lắng như tôi đã bị. Mọi thứ đã thay đổi một chút so với thời tôi còn trẻ. Màu xanh đen xuất hiện khắp nơi trên TV, trên các tạp chí thời trang, quảng cáo, thậm chí là trong các bộ phim điện ảnh.

Không có địa chỉ trả lại trên phong bì. Vì vậy, tôi đoán mình vẫn là người mẹ tồi bị trừng phạt mãi mãi cho đến ngày chết vì mục đích tốt và trên thực tế là cách cần thiết mà tôi đã nuôi dạy đứa con gái. Tôi biết con mình oán hận mình. Mối quan hệ phụ thuộc vào việc cô ấy gửi tiền. Phải nói rằng tôi rất biết ơn vì số tiền đó, vì không phải xin thêm như một số bệnh nhân khác. Nếu muốn bộ bài mới riêng để chơi solitaire, có thể mua và không cần chơi với bộ bài bẩn thỉu, sờn rách trong phòng khách. Và có thể mua kem bôi mặt đặc biệt. Nhưng tôi không bị lừa. Tôi biết số tiền cô gửi là một cách để tránh xa và xoa dịu chút lương tâm còn sót lại.

Nếu tôi tỏ ra cáu kỉnh, bạc bẽo, một phần vì ẩn sâu trong đó là sự hối hận. Tất cả những điều nhỏ nhặt tôi đã không làm hoặc làm sai. Nhớ khi cô ta có kinh lần đầu tiên và cách tôi phản ứng. Hay những lần tôi hét lên khi cô vấp ngã hoặc đánh rơi thứ gì đó. Đúng vậy. Tôi thực sự rất khó chịu, thậm chí còn ghê tởm bởi làn da đen khi cô ta sinh ra và lúc đầu tôi nghĩ đến việc . . . Không. Tôi phải đẩy những ký ức đó đi—nhanh lên. Không ích gì. Tôi biết tôi đã làm điều tốt nhất cho cô ta trong hoàn cảnh như vậy. Khi người chồng bỏ rơi chúng tôi, Lula Ann là một gánh nặng. Một cái nặng, nhưng tôi đã chịu đựng kiên trì.

Vâng, tôi đã rất khó với cô ấy. Các người có thể cá cược tôi thắng. Khi cô mười hai, sắp mười ba tuổi, thậm chí tôi còn phải cứng rắn hơn. Cô thường cãi lại, không chịu ăn những gì tôi nấu, không muốn tôi chải tóc. Tôi thắt bím, khi cô đến trường sẽ cởi bím ra. Không thể để cô trở nên tồi tệ. Tôi đóng nắp điện thoại lại và cảnh cáo một số tên mà cô đã gọi. Tuy nhiên, một số dạy dỗ của tôi chắc hẳn đã bị rơi rụng. Bây giờ, thấy chưa, cô đã như thế nào? Một cô gái có sự nghiệp giàu sang. Tôi có thể hơn chăng?

Bây giờ cô đang mang thai. Tốt lắm, Lula Ann. Nếu con nghĩ rằng làm mẹ chỉ có nấu ăn, mặc quần áo và thay tã thì con sẽ bị sốc nặng. Con và bạn trai, hoặc chồng, hoặc người bán hàng không tên- bất cứ ai - hãy tưởng tượng, A aa! Đứa bé! Cúc cu! cúc cu!

Lắng nghe mẹ. Con sắp sẽ phải tìm hiểu nó cần những gì, thế giới của nó như thế nào, nó hoạt động ra sao và nó sẽ thay đổi khi con làm mẹ. Chúc may mắn và xin Chúa giữ gìn đứa trẻ.
 
Toni Morisson, Ngu Yên dịch
 
Ghi chú:
(*) “Sweetness” danh từ lóng dùng để gọi. Có thể dịch là “cưng” cho những vai vế nhỏ hơn, như cục cưng; hoặc cho tình nhân, như em cưng, anh cưng. Nhưng không thể sử dụng thay thế vai trò người mẹ. Tiếng Việt không có từ tương đương. Tôi tạm dùng từ “mợ” để tránh từ trực tiếp “mẹ” “má” như tác giả muốn mô tả trong truyện.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bài viết “Đánh Trận Là Một Nghệ Thuật” đã được đăng trên “The Journal of Military History” số 68 vào năm 2004. Đây là một quyển báo rất có uy tín của quân đội Hoa Kỳ từ năm 1937, chuyên đăng những bài nghiên cứu có giá trị về lịch sử quân đội của mọi nơi trên thế giới. Dù đã ra đời mười sáu năm, bài viết này có một giá trị lịch sử đặc biệt vì người viết đã tham khảo rất công phu nhiều tài liệu của cả Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ và Bắc Việt. Bài viết này đã được Cố Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hòa nhận định là chính xác đến 95%.
Máu đã đổ suốt từ thời chiến tranh cho tới lúc hòa bình 45 năm nay, những giọt máu của người dân trong nước khao khát nền Tự Do Dân Chủ vẫn còn chảy trong nhà tù với những bản án khắc nghiệt dành cho họ và những người đã chết đều có thật. Rất thật.
Vào sáng ngày 1 tháng 5-1975 Trung tá bác sĩ Hoàng Như Tùng, nguyên chỉ huy trưởng Quân Y viện Phan Thanh Giản - Cần Thơ, mặc đồ dân sự, trong tư thế quân phong, đưa tay lên chào vĩnh biêt Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lênh Quân Đoàn IV, Quân Khu IV, Vùng 4 Chiến Thuật, trước sự kinh ngạc của một nhóm sĩ quan cấp cao của bộ đội cộng sản vì sự dũng cảm của bác sĩ Trung Tá Hoàng Như Tùng. Một sĩ quan của bộ đội cộng sản mang quân hàm thiếu tá tiến đến và yêu cầu bác sĩ Hoàng Như Tùng nhận diện Tướng Nguyễn Khoa Nam.
Dù tôi đã sống trên đất Mỹ nhiều năm rồi, nhưng thỉnh thoảng, trong giấc ngủ hằng đêm, tôi vẫn gặp ác mộng về những lần trốn chạy kinh hoàng của một người bị săn đuổi. Choàng tỉnh dậy giữa đêm, tôi nhớ lại rất rõ nét những giấc mơ vừa trải qua, mồ hôi toát ra như tắm vì tôi như vẫn còn nghe văn vẳng đâu đây tiếng kẻng báo thức rõ mồn một, tiếng kẻng của các trại giam cộng sản Việt Nam được làm bằng những cái niềng (rim) xe hơi và dùng 1 thanh sắt gõ vào tạo thành 1 âm thanh vang rất xa. Ai từng ở tù hay bị đày ra những trại cưỡng bức lao động, hoặc trại tập trung cải tạo của cộng sản Việt Nam thì không bao giờ quên được tiếng kẻng này.
46 năm sau biến cố cưỡng chiếm Hoàng Sa 1974, và 32 năm sau vụ thảm sát Gạc Ma nơi quần đảo Trường Sa 1988, cả hai đều do bàn tay vấy máu của Trung Cộng. Không chỉ bằng vũ lực, Bắc Kinh nay còn viện dẫn Công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng ký như bằng chứng pháp lý gây khó khăn cho Việt Nam trong tranh chấp chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
Kim lái chiếc xe Honda đi biếu cái bánh chưng cuối cùng vào lúc 7 giờ sáng ngày 30 Tết năm 1975. Tuy có bao nhiêu lần thức khuya học bài, nhưng đây là lần đầu tiên Kim thức trắng đến sáng, cái đầu nhức như búa bỗ, óc trống rỗng, người lâng lâng như muốn bay lên mây...
Mở đầu nhật ký tuần này xin được góp phần tưởng nhớ các nhân viên y tế, đặc biệt là các y tá (những thành viên trong đội ngũ thiên thần áo trắng ở tuyến đầu chống dịch bệnh Vũ Hán) ở khắp nơi trên thế giới đã "sinh nghề tử nghiệp". Tính đến đầu tháng 4 năm 2020, đã có hơn 100 "thiên thần áo trắng" qua đời vì bị lây nhiễm Coronavirus từ bệnh nhân, hơn một nửa là nhân viên y tế ở Ý.
Những dòng ký sự và nhận định sau đây, tường thuật lại những biến cố xảy ra tại Trường Y Sàigòn từ năm 1967-1971 và sau đó...do sự can thiệp của phái bộ Hội Đoàn Bác sĩ Mỹ -American Medical Association tại Saigòn (AMA-SAIGON) vào nội bộ Trường Y Saigon. Những sử liệu của bài nhận định này đều dựa trên những điều tường thuật của quyển sách thời danh SAIGON MEDICAL SCHOOL do 3 người viết: CH William Ruhe MD, Norman Hoover MD và Ira Singer PhD, tất cả ba vị này đều là nhũng người lãnh đạo và cố vấn cho cuộc can thiệp của phái bộ AMA vàoTrường Y Saigon từ năm 1967. Tập sách SAIGON MEDICAL SCHOOL do chính cơ quan AMA, xuất bản tại Mỹ năm 1988.
Dạo đó, đầu thập niên 70, dưới giàn hoa giấy, trong khoảng sân nhỏ nhà chúng tôi, thỉnh thoảng có những người lính thuộc mọi binh chủng của Quân lực VNCH. Họ ngồi hút thuốc, hay tay đàn miệng hát vì trong cư xá Đoàn Văn Cự ở Biên Hòa có khá nhiều chị đang học lớp 12 rất đẹp. Nhà chúng tôi ở đầu cư xá nên các chị thường phải đi ngang nhà chúng tôi trước khi về nhà mình.
Mẹ tôi bán thuốc tây để dành được một ít tiền cho chị em tôi đi vượt biên. Chuyến đầu mẹ cho ba chị em tôi đi nhưng bị đổ bể, đợt hai mẹ cho chị tôi đi với gia đình dì, và được Cap Anamur Đức vớt, đưa đến Đức vào năm 80. Một năm sau mẹ gửi hai anh em tôi cho cô chủ tàu ở Cần Thơ và chúng tôi được đưa lên tàu đánh cá nhỏ có 89 người.Thuyền rời bến, ngày đầu chúng tôi được phát nước uống, qua ngày thứ hai thì không còn giọt nước nào. Lúc đó vào tháng năm, nắng nóng, thuyền lại không có mui che nên ai cũng mệt lả, thuyền đông người lại quá chật hẹp không cựa quậy gì được, tôi chỉ cần nhút nhích một chút là bị người ta nhéo. Lúc đó tôi chỉ thấy chung quanh là biển rộng mênh mông, tôi nhớ nhà và cầu mong sao cho bị bắt để được về nhà lại.Trên thuyền bắt đầu có một chị bị sảng vì thiếu nước uống, rồi thì không biết ai đó lấy lon Guigoz truyền nước uống cho nhau nhưng ai hớp vô rồi cũng phun ra vì đó là nước biển, mặn quá, tôi cũng không ngoại lệ.
Trời Chicago cuối tháng Tư vẫn còn lạnh. Tuy thế anh em đi dự buổi họp điều-trị-tâp-thể đông hơn thường lệ. Nhiều anh em sĩ quan ở các nhóm khác, không phải họp hôm nay, họ cũng đến. Phòng họp dành cho buổi điều-trị-tập-thể của các anh em sĩ quan H.O. tại Asian Human Services -Chicago rộng rãi và tươm tất, được trang hoàng trang nhã với những bức tranh ấn tượng của Claude Monet, màu sắc hàì hòa gợi nhớ về một thuở thanh bình.
Thôi thì khỏi nói, mọi người tay bắt mặt mừng, ai ai cũng vui như hội. Bà Tám đầu hẻm oang oang: - Thằng nhỏ coi bộ phổng phao ghê vậy ta, hồi còn ở đây gầy nhom, da bánh mật. Nó qua bển một thời gian giờ thay da đổi thịt quá, nếu đi ngoài đường chắc tui nhận hổng ra. Cả nhà quây quần tíu tít, bia bọt khui lốp bốp. Tuị bạn ngày xưa bá vai kề cổ giờ cũng ra ông nọ bà kia hết trơn. Chỉ có mỗi thằng An là lẹt đẹt làm anh công chức quèn thôi!


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.