Hôm nay,  

“Mợ”*

17/02/202300:00:00(Xem: 3620)

Truyện ngắn “Sweetness” của Toni Morrison - Nobel Prize 1993.

 

Ngu Yên dịch

Toni Morrison
Toni Morrison - Tiểu thuyết gia Hoa Kỳ (1931 – 2019), Giải National Book Critics Circle Award, 1977. Giải Pulitzer Price for Beloved, năm 1987. Nobel Prize năm 1993. Lãnh huy chương Medal of Freedom năm 2012. Hiện diện trong National Women’s Hall of Frame, năm 2020.
 
Không phải lỗi của tôi. Vì vậy, tôi không thể gánh chịu. Tôi chẳng những không làm chuyện này mà còn không biết nó xảy ra như thế nào. Không mất hơn một giờ, sau khi họ kéo con bé ra khỏi giữa hai chân, lúc đó, tôi mới nhận ra có điều gì đó không ổn. Thực là sai lầm. Nó đen đến nỗi làm tôi kinh sợ. Đen nửa đêm, đen Sudan. Tôi có màu da ít đen, tóc đẹp, gọi là vàng lợt, và bố của Lula Ann cũng vậy. Không ai trong gia đình có màu da gần giống màu này. Tar là người gần giống nhất mà tôi có thể nghĩ đến, nhưng tóc của nó không hợp với da. Khác hẳn - thẳng nhưng xoăn, giống như tóc của những bộ lạc khỏa thân ở Úc. Có thể nghĩ con bé là một nhân vật tổ tiên đầu thai, nhưng đầu thai cái quái gì? Các người nên gặp bà tôi; bà theo phe người da trắng, kết hôn với đàn ông da trắng, không bao giờ nói lời nào với bất cứ con cái của bà. Nếu bà nhận được bất kỳ lá thư nào từ mẹ tôi hoặc từ các dì, chưa kịp mở, bà đã gửi trả lại ngay. Cuối cùng họ nhận được thông báo không có tin nhắn và để cho bà yên. Hầu như tất cả các loại người da trắng lai đen và lai một phần tư máu lạ đã làm nhu vậy trước đây— nghĩa là có loại tóc phù hợp. Các người có thể tưởng tượng có bao nhiêu người da trắng mang trong mình dòng máu Da đen không? Đoán. Tôi nghe nói hai mươi phần trăm. Mẹ tôi, Lula Mae, lẽ ra có thể sống dễ dàng, nhưng bà đã chọn không làm như vậy. Bà nói với tôi cái giá phải trả cho quyết định đó. Khi bà và cha tôi đến tòa án để làm lễ kết hôn, có hai cuốn Kinh thánh, và họ phải đặt tay lên cuốn dành riêng cho người da đen. Cuốn còn lại dành cho bàn tay người da trắng. Kinh Thánh! Có thể vượt lên nó không? Mẹ tôi là quản gia cho một cặp vợ chồng da trắng giàu có. Họ ăn mọi bữa ăn do bà nấu và khăng khăng đòi bà kỳ lưng khi ngồi trong bồn tắm, và chỉ có Chúa mới biết họ bắt bà làm những việc thân mật nào khác, ngoại trừ việc không đụng đến cùng một cuốn Kinh thánh.

Một số người có thể nghĩ, thật tệ khi tự phân nhóm theo màu da—càng lợt càng tốt—trong các câu lạc bộ xã hội, khu dân cư, nhà thờ, hội nữ sinh, thậm chí cả trường da màu. Nhưng làm thế nào khác để chúng ta có thể giữ một chút phẩm giá? Còn cách nào khác để không bị khạc nhổ trong hiệu thuốc, bị thúc cùi chỏ ở bến xe buýt, phải đi bộ trong rãnh nước để người da trắng có toàn thể vỉa hè, bị tính tiền xu ở cửa hàng tạp hóa cho một chiếc túi giấy, mà nó miễn phí cho người da trắng mua hàng? Đừng quan tâm đến những tên gọi. Tôi đã nghe tất cả những điều đó và nhiều, nhiều hơn nữa. Nhưng vì màu da của mẹ tôi, bà không ngừng thử mũ hoặc sử dụng phòng vệ sinh nữ trong các cửa hàng bách hóa. Và cha tôi có thể thử giày ở phần phía trước cửa hàng, không phải ra phòng phía sau. Bố mẹ tôi không uống từ đài phun nước "Chỉ dành cho da màu", ngay cả khi họ sắp chết khát.

Tôi ghét phải nói ra điều này, nhưng ngay từ đầu trong phòng hộ sinh, đứa bé, Lula Ann, đã làm tôi xấu hổ. Làn da khi mới sinh của con bé nhợt nhạt như tất cả trẻ sơ sinh, kể cả trẻ em châu Phi, nhưng nó thay đổi nhanh chóng. Tôi tưởng mình phát điên khi nó chuyển sang màu xanh đen ngay trước mắt. Tôi biết mình đã phát điên trong một phút, bởi vì—chỉ trong vài giây thôi—tôi đã trùm chăn lên mặt nó và ấn chặt xuống. Nhưng không thể làm thế, dù đã ước gì con bé không sinh ra với màu sắc khủng khiếp đó. Thậm chí, còn nghĩ đến chuyện đưa nó đến trại trẻ mồ côi ở một nơi nào. Nhưng sợ trở thành một trong những bà mẹ để con ở bậc thềm nhà thờ. Mới đây, nghe nói, một cặp vợ chồng ở Đức, da trắng như tuyết, sinh đứa con da ngăm đen mà không ai giải thích được. Tôi tin là sinh đôi - một da trắng, một đen, nhập lại. Nhưng không biết nếu chuyện này là sự thật. Tất cả những gì biết được, đối với tôi, cho con bé bú giống như để con chim chích chòe mút vú. Tôi chuyển sang cho nó bú bình ngay khi về đến nhà.

Chồng tôi, Louis, là một người khuân vác, khi anh bước ra khỏi chỗ làm, anh nhìn như thể tôi thực sự bị điên và đứa bé giống như đến từ hành tinh sao Mộc. Anh không phải là người hay chửi thề, nhưng khi ấy, anh nói, “Mẹ nó! Cái quái gì đây?” Tôi biết chúng tôi đang gặp rắc rối. Đó là điều đã xảy ra - điều đã gây mâu thuẫn giữa tôi và anh ta. Nó đã phá vỡ cuộc hôn nhân thành từng mảnh.

Chúng tôi có ba năm tốt đẹp sống bên nhau, nhưng khi con bé chào đời, anh đổ lỗi cho tôi và đối xử với Lula Ann như thể người xa lạ—hơn thế nữa, là một kẻ thù. Anh chưa bao giờ chạm vào nó.

Tôi không bao giờ thuyết phục anh ta, tôi chưa bao giờ lẳng lơ với người đàn ông khác. Anh ta tin chắc như đinh đóng cột là tôi nói dối. Chúng tôi tranh luận mãi cho đến khi phải nói, màu da đen của con bé đến từ phía gia đình anh, không phải bên tôi. Đó là lúc mọi chuyện trở nên tồi tệ, tệ đến mức anh đứng dậy, bỏ đi, còn tôi phải tìm một nơi khác rẻ tiền để thuê ở. Đã làm hết sức mình. Tôi biết đủ, không đưa con bé theo khi đến nộp đơn cho chủ nhà, gửi nó cho đứa em họ tuổi vị thành niên giữ giùm. Dù sao thì tôi cũng không đưa nó ra ngoài nhiều, bởi vì, khi đẩy nó trong xe nôi, mọi người sẽ cúi xuống nhìn vào để nói điều gì đó tốt đẹp rồi giật mình hoặc nhảy lùi lại trước khi cau mày. Việc như vậy gây tổn thương. Tôi có thể làm người trông trẻ nếu màu da của chúng tôi bị đảo ngược. Chỉ là một người phụ nữ da màu - thậm chí là một người da vàng lợt - cố gắng thuê nhà ở một khu đàng hoàng trong thành phố đã đủ khó rồi. Quay trở lại những năm 1990, khi Lula Ann ra đời, tuy luật cấm phân biệt đối xử với người đi thuê nhà, nhưng ít chủ nhà chú ý đến luật này. Họ tạo ra lý do để gạt người da màu ra ngoài. Nhưng tôi đã gặp may với ông Leigh, mặc dù biết ông ấy đã tăng tiền thuê nhà bảy đô la so với những gì ông đã quảng cáo, và ông ấy sẽ nổi cơn tam bành nếu chậm trả tiền một phút.

Tôi bảo con bé gọi tôi là “mợ” (sweetness) thay vì “mẹ” (mother) hay “má” (mama). Như vậy, an toàn hơn. Con bé đen như vậy và đôi môi quá dày mà gọi tôi là “mẹ” sẽ khiến mọi người bối rối. Bên cạnh đó, nó có đôi mắt có màu sắc ngộ nghĩnh, màu đen như mỏ quạ với ánh xanh—điều gì đó rất phù thủy ở trong đôi mắt.

Vì vậy, chỉ có hai chúng tôi trong một thời gian dài, và không cần phải kể cho ai biết đời sống của người vợ bị bỏ rơi khó khăn như thế nào. Tôi đoán Louis cảm thấy xấu xa sau khi bỏ rơi chúng tôi, bởi vì vài tháng sau, anh ấy biết nơi tôi  ở và bắt đầu gửi tiền mỗi tháng một lần, mặc dù tôi chưa bao giờ yêu cầu, cũng không đến tòa án để xin trợ cấp. Các phiếu chuyển tiền năm mươi đô la của anh và công việc ban đêm của tôi tại bệnh viện đã khiến tôi và Lula Ann không được hưởng phúc lợi. Đó là một điều tốt. Tôi ước họ ngừng gọi là phúc lợi và quay trở lại danh từ họ đã sử dụng khi mẹ tôi còn thiếu nữ. Hồi đó, họ gọi là "cứu trợ." Nghe có vẻ hay hơn, giống như đó chỉ là một khoảng thời gian nghỉ ngơi ngắn hạn trong khi điều chỉnh bản thân. Còn nữa, những nhân viên phúc lợi có ý nghĩa như nhổ nước bọt. Cuối cùng khi có việc làm và không cần đến họ, tôi kiếm được nhiều tiền hơn họ từng làm. Tôi đoán, sự hèn hạ đã lấp đầy những tấm séc lương ít ỏi của họ, đó là lý do tại sao họ đối xử với chúng tôi như những kẻ ăn xin. Đặc biệt là khi họ nhìn Lula Ann rồi quay lại nhìn tôi—như thể tôi đang cố gian lận hay làm chuyện giấu giếm gì đó. Mọi thứ đã tốt hơn nhưng vẫn phải cẩn thận. Rất cẩn thận trong cách nuôi dạy con bé. Tôi phải nghiêm khắc, rất nghiêm khắc. Lula Ann cần học cách cư xử, cách cúi đầu và không gây rắc rối. Tôi không quan tâm nó đổi tên bao nhiêu lần. Màu sắc của nó là cây thánh giá mà nó sẽ luôn luôn mang theo. Nhưng đó không phải là lỗi của tôi. Đó không phải lỗi của tôi. Không thể.

Ồ đúng rồi, đôi khi tôi cảm thấy tồi tệ về cách đối xử với Lula Ann khi con bé còn nhỏ. Nhưng các người phải hiểu: tôi cần bảo vệ nó. Con bé chưa biết gì về thế giới bên ngoài. Với làn da đó, không có lý do gì để trở nên cứng rắn hay hỗn xược, ngay cả khi mình đúng. Không phải trong một thế giới có thể bị tống vào trại giam dành cho trẻ em vị thành niên vì dám cãi lại hoặc đánh nhau ở trường, một thế giới mà bạn là người cuối cùng được tuyển dụng và là người đầu tiên bị sa thải. Con bé không biết bất kỳ điều gì trong số đó hoặc làn da đen của nó sẽ khiến người da trắng sợ hãi như thế nào hoặc khiến họ cười và cố lừa cô ấy ra sao. Tôi đã từng nhìn thấy một cô bé đen không bằng Lula Ann. Không quá mười tuổi bị vấp ngã bởi một trong nhóm các cậu bé da trắng. Khi cô cố bò dậy, một cậu bé khác đã đạp vào lưng và hất cô ra, nằm sấp bằng phẳng. Mấy đứa đó ôm bụng cười nghiêng ngả. Rất lâu sau khi cô ấy đi, họ vẫn cười khúc khích, rất tự hào về bản thân. Nếu không nhìn qua cửa sổ xe buýt thì tôi đã giúp cô ấy, kéo cô ra khỏi thùng rác màu trắng đó. Thấy chưa, nếu tôi không huấn luyện Lula Ann đúng đắn thì nó không biết cách băng qua đường và tránh những cậu bé da trắng. Nhưng những bài học tôi dạy cho nó đã được đền đáp, và cuối cùng nó khiến tôi tự hào như một con công xòe đuôi.

Tôi không phải là một mẹ tồi, các người phải biết điều này, nhưng tôi có thể đã làm một số điều gây tổn thương cho đứa con duy nhất vì tôi phải bảo vệ nó. Phải. Tất cả chỉ vì đặc quyền của làn da. Lúc đầu, tôi không thể nhìn qua tất cả màu đen để biết con bé là ai và chỉ đơn giản là yêu nó. Nhưng tôi đã làm. Thực sự làm. Tôi nghĩ bây giờ cô ấy đã hiểu. Tôi nghĩ như vậy.

Hai lần trước tôi gặp cô ấy, rất nổi bật. Loại táo bạo và tự tin. Mỗi lần cô đến gặp, tôi quên mất cô thực sự đen như thế nào vì cô đã tận dụng điều đó để làm lợi thế cho mình trong bộ quần áo trắng đẹp đẽ.

Đã dạy cho tôi một bài học mà lẽ ra tôi phải biết từ lâu. Chúng ta nên làm gì với trẻ em, chuyện đó rất quan trọng. Và họ có thể không bao giờ quên. Ngay khi có thể, cô ấy bỏ mặc tôi một mình trong căn hộ tồi tệ đó. Cô tránh xa tôi hết mức có thể: trang điểm kỹ lưỡng và kiếm một công việc quan trọng ở California. Cô không gọi điện hay thăm hỏi nữa. Thỉnh thoảng gửi tiền và đồ đạc cho tôi, nhưng  không gặp nhau trong bao lâu, tôi không nhớ.
Tôi thích nơi này - Winston House - hơn là những viện dưỡng lão lớn, đắt tiền bên ngoài thành phố. Phòng của tôi nhỏ, ấm cúng, rẻ hơn, với y tá 24 giờ và bác sĩ đến hai lần một tuần. Tôi mới sáu mươi ba tuổi - còn quá trẻ để chăn thả gia súc - nhưng tôi đã mắc một số bệnh nan y về xương, vì vậy việc tự chăm sóc trở thành quan trọng. Sự buồn chán còn tồi tệ hơn cả sự yếu đuối hay đau đớn, nhưng các y tá rất đáng yêu. Một người vừa hôn lên má tôi khi tôi nói với cô, tôi sắp lên chức bà ngoại. Nụ cười và lời khen của cô phù hợp với một người sắp đăng quang. Tôi cho cô ấy xem bức thư trên giấy màu xanh mà tôi nhận được từ Lula Ann—à, con gái đã ký tên là “Cô dâu,” nhưng tôi không bao giờ chú ý đến điều đó. Lời nói của cô ta nghe có vẻ ngông cuồng. “Đoán xem, mẹ. Con rất, rất vui khi được thông báo tin này. Con sắp có em bé. Con quá vui mừng và hy vọng mẹ cũng vậy." Tôi cho rằng, điều hồi hộp là đứa bé chứ không phải cha nó, bởi vì cô  không hề nhắc đến anh ta. Không biết anh có đen như cô không. Nếu vậy, cô không cần phải lo lắng như tôi đã bị. Mọi thứ đã thay đổi một chút so với thời tôi còn trẻ. Màu xanh đen xuất hiện khắp nơi trên TV, trên các tạp chí thời trang, quảng cáo, thậm chí là trong các bộ phim điện ảnh.

Không có địa chỉ trả lại trên phong bì. Vì vậy, tôi đoán mình vẫn là người mẹ tồi bị trừng phạt mãi mãi cho đến ngày chết vì mục đích tốt và trên thực tế là cách cần thiết mà tôi đã nuôi dạy đứa con gái. Tôi biết con mình oán hận mình. Mối quan hệ phụ thuộc vào việc cô ấy gửi tiền. Phải nói rằng tôi rất biết ơn vì số tiền đó, vì không phải xin thêm như một số bệnh nhân khác. Nếu muốn bộ bài mới riêng để chơi solitaire, có thể mua và không cần chơi với bộ bài bẩn thỉu, sờn rách trong phòng khách. Và có thể mua kem bôi mặt đặc biệt. Nhưng tôi không bị lừa. Tôi biết số tiền cô gửi là một cách để tránh xa và xoa dịu chút lương tâm còn sót lại.

Nếu tôi tỏ ra cáu kỉnh, bạc bẽo, một phần vì ẩn sâu trong đó là sự hối hận. Tất cả những điều nhỏ nhặt tôi đã không làm hoặc làm sai. Nhớ khi cô ta có kinh lần đầu tiên và cách tôi phản ứng. Hay những lần tôi hét lên khi cô vấp ngã hoặc đánh rơi thứ gì đó. Đúng vậy. Tôi thực sự rất khó chịu, thậm chí còn ghê tởm bởi làn da đen khi cô ta sinh ra và lúc đầu tôi nghĩ đến việc . . . Không. Tôi phải đẩy những ký ức đó đi—nhanh lên. Không ích gì. Tôi biết tôi đã làm điều tốt nhất cho cô ta trong hoàn cảnh như vậy. Khi người chồng bỏ rơi chúng tôi, Lula Ann là một gánh nặng. Một cái nặng, nhưng tôi đã chịu đựng kiên trì.

Vâng, tôi đã rất khó với cô ấy. Các người có thể cá cược tôi thắng. Khi cô mười hai, sắp mười ba tuổi, thậm chí tôi còn phải cứng rắn hơn. Cô thường cãi lại, không chịu ăn những gì tôi nấu, không muốn tôi chải tóc. Tôi thắt bím, khi cô đến trường sẽ cởi bím ra. Không thể để cô trở nên tồi tệ. Tôi đóng nắp điện thoại lại và cảnh cáo một số tên mà cô đã gọi. Tuy nhiên, một số dạy dỗ của tôi chắc hẳn đã bị rơi rụng. Bây giờ, thấy chưa, cô đã như thế nào? Một cô gái có sự nghiệp giàu sang. Tôi có thể hơn chăng?

Bây giờ cô đang mang thai. Tốt lắm, Lula Ann. Nếu con nghĩ rằng làm mẹ chỉ có nấu ăn, mặc quần áo và thay tã thì con sẽ bị sốc nặng. Con và bạn trai, hoặc chồng, hoặc người bán hàng không tên- bất cứ ai - hãy tưởng tượng, A aa! Đứa bé! Cúc cu! cúc cu!

Lắng nghe mẹ. Con sắp sẽ phải tìm hiểu nó cần những gì, thế giới của nó như thế nào, nó hoạt động ra sao và nó sẽ thay đổi khi con làm mẹ. Chúc may mắn và xin Chúa giữ gìn đứa trẻ.
 
Toni Morisson, Ngu Yên dịch
 
Ghi chú:
(*) “Sweetness” danh từ lóng dùng để gọi. Có thể dịch là “cưng” cho những vai vế nhỏ hơn, như cục cưng; hoặc cho tình nhân, như em cưng, anh cưng. Nhưng không thể sử dụng thay thế vai trò người mẹ. Tiếng Việt không có từ tương đương. Tôi tạm dùng từ “mợ” để tránh từ trực tiếp “mẹ” “má” như tác giả muốn mô tả trong truyện.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Kính Anh Chị Lê Thanh Tôi nhận được thư anh chị cách đây mươi ngày. Tôi định viết thư trả lời anh chị hay liền, và cám ơn anh chị đã nhiệt tình đỡ đầu hai quyển sách đầu tay của tôi mà tôi tự xuất bản. Nhưng không hiểu tại sao tôi mãi chần chờ. Đêm nay, tự dưng thức giấc, đọc lại thư anh viết, lòng cảm thấy bồn chồn. Lời thư anh mộc mạc, ngắn gọn, chứa chan tình cảm và nhiều suy nghĩ. Suy nghĩ của anh, của người tuổi đã ngoài 70. Anh đã đi qua nhiều chặng đường lịch sử của đất nước.
Như mọi buổi sáng, tôi vừa dùng điểm tâm vừa xem tin tức trên Internet. Sau đó, tôi vào Inbox để xem emails của bạn hữu. Khi thấy youtube tình khúc Hai Vì Sao Lạc – do ông Trần Nắng Phụng chuyển – cũng là lúc tôi chợt nhớ trái avocado để quên nơi bếp. Tôi “bấm” vào youtube rồi rời phòng computer, đi xuống lầu, với dụng ý khi tôi trở lên thì phần nhạc dạo đầu sẽ chấm dút.
Tháng ba, dường như mùa đông chỉ mới bắt đầu sau một tháng thời tiết ấm áp. Nấc đo màu đỏ của hàn thử biểu nằm trên dương độ và có khi vượt qua khỏi con số mười. Mọi người hân hoan cho rằng Paris năm nay không có mùa đông. Nhưng những cơn mưa ướt át, những luồng gió lạnh lẽo từ một cơn bão nào đó đã ào ạt thổi về trên phố từ mấy ngày nay. Con đường trước nhà lúc nào cũng vắng hay tôi chỉ nhìn thấy nó mỗi khi không còn ai. Thói quen trước khi vào giường ngủ và thức dậy khi đêm chuẩn bị tạ từ. Đèn vàng và sương mù, những ngôi nhà, cây cành đổ bóng ngoài khung cửa là nơi của quá khứ tôi, nơi hồi tưởng, dù vui dù buồn. Nhớ lại trong đêm nay… cả trăm điều muốn khóc1, một lời hát lấy từ một bài thơ của một nhà thơ quá cố mà tôi rất thích và tôi nghĩ đâu phải riêng tôi mới có cả trăm điều muốn khóc. Của chúng ta, bao người ly hương, làm gì lại chẳng có những đêm nhớ lại với trăm điều.
Thứ hai 6 tháng 4 South Carolina tiểu bang cuối cùng của các tiểu bang nằm dọc theo phía Đông của sông Mississippi (giòng sông dài thứ nhì của Bắc Mỹ) ban hành lệnh "Shelter in place". Cùng lúc, Indiana kéo dài "lệnh cấm túc" thêm 14 ngày nữa trên toàn tiểu bang.
Bài viết này lấy cảm hứng từ tựa đề của một tác phẩm nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam Cộng Hoà. Đó là tựa đề “Những người không chịu chết” (1972), một trong những vở kịch nổi tiếng của kịch tác gia Vũ Khắc Khoan. Lúc vở kịch ra đời, tôi hãy còn nhỏ lắm, nhưng cũng phần nào đủ trí khôn để thưởng thức vở kịch này. Tôi được đọc vở kịch trước rồi sau mới xem kịch trên truyền hình. Đã mấy mươi năm rồi nên bây giờ tôi chỉ còn nhớ lờ mờ rằng vở kịch đó nói về một nhóm tượng người mẫu, cứ đêm đêm đêm lại trở thành người, sống, ăn nói và sinh hoạt như bao con người bình thường khác, với đầy đủ tham, sân, si, hỉ, nộ, ái, ố, thất tình lục dục. Bài viết này mượn cảm hứng đó để nói về—không hẳn chỉ là những con người—mà còn là những thực thể khác, cũng không hề chịu chết, qua dòng lịch sử nghiệt ngã của nước Việt, tính từ ngày 30 tháng Tư năm 1975.
Tiếng giày cao gót lụp cụp tiếp theo sự xuất hiện của một cô gái làm Vinh ngơ ngẩn đến lặng người. Trời ơi! Sao trên đời lại có người đẹp thế này! Nàng mặc nguyên cái áo dài màu xanh da trời đồng phục của tiếp viên hàng không Air VietNam với huy hiệu rồng vàng nổi bật trên cổ áo ôm lấy một bờ ngực vun đầy và vòng eo chết người. Gương mặt trái soan với đôi má hây hây điểm trên làn da trắng mịn màng, bờ môi mộng đỏ hình trái tim, cộng thêm đôi mắt bồ câu đen long lanh với viền mi cong vút dài rậm(thiệt đúng là chí lớn trong thiên hạ không đong đầy đôi mắt mỹ nhân). Tất cả như muốn nhốt cả hồn Vinh trong ngây dại chìm đắm.
Tiếng niệm chú rì rầm trầm hùng vang rền cả đại điện, bóng các tăng sĩ trong màu áo huyết dụ lắc lư, tay lần tràng hạt trong ánh đèn bơ lung lay trông thành kính vô cùng. Toàn bộ mọi người như nhập thần vào câu chú, thân người ngồi đó mà thần thức như ở cung trời nào chứ chẳng phải trên mặt đất này. Khói trầm phảng phất bay lên, pho tượng Phật trên toà tay bắt ấn kiết tường, mắt mở to như nhìn thấu những tấn tuồng của trò đời, thông suốt những nỗi đau của chúng sanh, biết tường tận tâm can của của mỗi người.
Chiếc đồng hồ treo trên vách gõ nhịp nhàng hai tiếng thảnh thót giữa đêm khuya tĩnh mịch. Từ đàng xa, vài con chó trong xóm vắng gầm gừ sủa ma nghe thấy lành lạnh người. Tiếng gió đưa xào xạc mấy hàng dừa bụi chuối bên hè cộng thêm giọng ểnh ương oàng oạc tạo thành khúc nhạc êm ái đặc biệt hắt hiu của đồng quê miền Nam. Mùi hương hoa bưởi hoa cau cũng nương theo làn gió đêm len lén vào nhà nghe thoang thoảng nhẹ nhàng. Cho tới giờ này mà Phi vẫn chưa ngủ được, nó cứ nằm lăn qua trở lại với nỗi buồn nhức thịt nhức da, đau buốt tâm can vì sáng mai này nó phải chia tay với con Hồng Thắm, người chị láng giềng lớn hơn nó hai tuổi và cũng là người mà nó thân thiết nhất xóm, còn hơn cả con Mai em gái của nó nữa . Mà nói nào ngay thì Hồng Thắm có đi xa xôi cách trở gì cho cam, chị chỉ qua Mỹ Tho học mà từ nhà tụi nó ở ngay chợ Ngã Tư An Khánh-Bình Đại (Bến Tre) qua có cái Bắc Rạch Miễu là đã tới nơi rồi.
An cười, nhưng chợt khựng lại với ý nghĩ không biết bao giờ mới có thể cùng Mẹ đến những chỗ đông vui như vậy. Hơn hai tuần lễ thực hiện điều “ở yên trong nhà” mà thấy lâu như cả năm. Mặc dù An đã kéo hết công việc về làm tại nhà, không phải đi đến sở, An thấy vẫn còn nhiều thì giờ trống. Chính là những lúc trước đây dành cho việc chạy bộ tập thể dục, là những lúc đẩy xe cho Mẹ đi dạo để hít thở chút khí trời trong lành, là những buổi họp mặt bạn bè, đàn ca hát xướng cho vui… Nhiều lắm! Khi bình thường không ai để ý những điều đó, đến khi phải sống trong một bầu không khí mới, sẽ thấy có sự khác biệt rõ ràng.
Thắp nhang tụng thời kinh công phu buổi sáng, tôi mỉm cười đón tia nắng mai đầu Xuân đang lạnh tràn lên chiếc áo tràng và thành tâm cầu nguyện “âm siêu dương thái, dịch bệnh tiêu trừ” cho đệ tử và chúng sanh không phân biệt. Tiếng chuông hồi hướng đưa tôi vào ngôi chùa Tự Tại để được sống thêm một giờ, một ngày hay bao lâu nữa cũng được trong thanh tịnh và an vui.
Để tưởng nhớ đến các đồng bào Việt Nam đã bỏ mình trên bước đường đi tìm tự do Elizabeth Becker (When the War Was Over, 1986) cites the UN High Commissioner on Refugees: 250,000 boat people died at sea; 929,600 reached asylum . Bà Elizabeth Becker trong quyển sách "Khi chiến tranh đã chấm dứt , 1986" dẫn chứng lời của vị Đặc Ủy Tối cao Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc: 250.000 thuyền nhân chết trên biển cả; 929.600 người được tỵ nạn. Tâm trạng hắn lúc đó thật là phức tạp. Hắn vừa hồi hộp, vừa lo lắng, vừa bùi ngùi đứt ruột vì phải xa lìa đất mẹ, nhưng đồng thời hắn cũng cảm thấy vô cùng phấn khởi náo nức khi nghĩ đến mỗi bước đi tới sẽ là những bước đưa gia đình hắn đến gần một chân trời mới đầy tự do và hy vọng… Tất cả mọi người đều bị ếm trong khoang ghe, không được gây tiếng động. Mấy cháu bé đều bị cho uống thuốc ngủ trước đó hết. Trong khoang ghe, tất cả được chia nhau ngồi chen chúc dọc theo hai bên vách. Mọi người đều im lặng.
Biển mùa hạ xanh biếc, màu xanh tưởng chừng như thông suốt từ đáy biển lên tận bầu trời, cái màu xanh mát mắt lạ thường, chỉ nhìn thôi đủ thấy khoan khoái, bao nhiêu bực dọc và phiền não như tan trong làn gió. Hàng ngàn người đang vùng vẫy trong làn nước xanh mát ấy.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.