Hôm nay,  

Vạn Điều Khó Nói

24/02/202300:00:00(Xem: 2825)



Trích đoạn truyện dài Thư Tình Viết Muộn

Tôi co quắp trên nền nhà. Cơn nhức nhối bồng bềnh như tảng băng trôi nổi trong đầu. T. đứng lừng lững trong khung cửa. Một người đàn bà đứng sát bên hắn. Ông anh sao thế này. Giọng nói của T. vẫn hệt như ngày nào. T. ngồi sụp xuống, lắc lắc vai tôi. Lại lên cơn nữa chắc.

Tôi loay hoay chống tay ngồi dậy. Bây giờ thì tôi nhìn rõ người đàn bà. Một người đàn bà rất trẻ và rất đẹp. Với tôi, tất cả đàn bà đều trẻ, đều đẹp (dĩ nhiên là không ai bằng cô ấy).

T. ném cái túi xách lên sa lông, tuột đôi giầy ra, dùng chân đá vào bên cạnh khung cửa.

Tôi đưa tay rờ rẫm mặt mình. Tôi vẫn còn nguyên vẹn.

Tôi nhìn T. Mới về đấy à. Rồi tôi nhìn người đàn bà. Người đàn bà có cái miệng rộng. Nụ cười xinh xắn. Nụ cười ấy tươi rói đôi môi có đường viền đỏ thẫm. Mầu hồng của son môi làm tươi thắm nụ cười hay nụ cười đẹp làm tươi thắm đôi môi tôi cũng không biết nữa. Người đàn bà chớp mắt hơi nhiều. Mí mắt xâm đặm đường viền đen. Con mắt lóng lánh tia nhìn gói ghém muôn vạn điều khó nói.

Lại quên uống thuốc nữa phải không ông anh. T. hỏi.

Tôi gật đầu cho qua chuyện. Ừ, bận quá. Bây giờ thì tôi nhớ. Tôi nhớ những vòng hào quang tỏa sáng căn phòng, tôi nhớ những đốm sáng bắn đầy không gian của những đêm pháo bông mừng ngày Quốc Khánh. Tôi nhớ cái điện thoại ở rất gần nhưng cũng rất xa tầm tay.

Sự trở về bất ngờ của T. làm tôi sững sờ. Hắn vẫn vậy. Bặt tông tích ít lâu. Nhiều khi tôi nghĩ hắn chết khô ở xó xỉnh nào đó hay đang ngồi đếm thời gian trôi bên trong hàng rào kẽm gai một trại giam nào đó của chính phủ Liên Bang.

Mỗi lần trở về, hắn thường dúi vào tay tôi một ít tiền, gọi là góp phần trả tiền thuê nhà.

Hắn cứ vậy. Chuyến này chắc đi hơi lâu, lúc biến đi, T. hay bảo tôi như thế.

Cái mặt sạm đen sừng sững trước mặt tôi. Tôi nhìn hắn như người ta nhìn một thây ma vừa đội mồ sống dậy.

T. cầm cổ tay tròn trịa của người đàn bà, kéo lại phía tôi.

“Ông anh kết nghĩa đây!”

Người đàn bà nhoẻn miệng cười, “Hello anh.”

Tôi gật đầu, lòng xớn xác cơn vui lạ mặt. Tôi chống tay ngồi dậy, nhìn quanh, bối rối. Đồ đạc trong phòng bồng bềnh trôi. “Chú mày không báo trước để anh dọn dẹp. Cái nhà như bãi rác.” Thường tôi gọi T. bằng “mày”. Có người đàn bà bên cạnh, nó được tôi thêm cho chữ “chú”, nghe trang trọng hẳn lên.

T. phá ra cười. Rồi nó ngậm miệng lại nhưng vẫn tiếp tục cười. Tiếng cười khùng khục như dòng nước lũ bị tắc nghẽn, lúc tuôn qua lòng cống hẹp.

Tôi nhìn vào vạch lông mày tỉa kỹ của người đàn bà.

Người đàn bà quét tôi bằng con mắt ướt rồi xoay đầu nhìn quanh. Những tờ báo quảng cáo của siêu thị quăng bừa bãi trên sa lông. Đống áo quần mới đi giặt về, chưa kịp xếp, nằm ụ lên một góc chiếc ghế dài trong phòng khách.

Rồi cái đầu tóc uốn quăn ấy xoay lại, trải tia nhìn lên tôi. Khi không tôi nghe ấm áp khắp châu thân, như lúc ôm gọn vào lòng đống áo quần nóng hổi vừa lấy ra từ máy sấy.

“Có gì đâu anh. Đàn ông mà được như vậy là giỏi lắm rồi.”

Rồi người đàn bà xoay qua T. “Phải không anh?”

Lúc nàng quay vòng, hình ảnh hụt hẫng của một thân hình đầy đặn, cong uốn, vun đầy, loang loáng những cánh hoa vàng trên nền áo lụa, bồng bềnh trước mắt tôi như chiếc phao, như cánh buồm bập bềnh trong lòng cơn bão biển.

“Ông anh giỏi lắm đó em. Đầu bếp số một.” T. vênh váo.

“Vậy sao?” giọng người đàn bà reo vui. “Vậy là khỏi sợ đói rồi.”

Tôi vui lây cái vui của T. và người đàn bà của nó.

Đầu óc lâng lâng, ngây ngất trong mùi nước hoa phảng phất từ mái tóc uốn quăn, từ manh áo lụa tím điểm những bông hoa vàng, từ phần thân thể trắng ngần kia. Mùa xuân nơi ấy. Mùa xuân gió lộng, thổi bay những cánh hoa vàng. Những cánh hoa mọc trên đồi cao. Những cánh hoa mọc trong lũng vắng. Thiên nhiên mở rộng. Hai ngọn đồi nhấp nhô. Mùi nước hoa tỏa ra từ trí tưởng, từ nước da trắng ngần.

“Quên giới thiệu anh. Đây là Jackie, người yêu của em.”

Tôi nghe cổ họng mình thắt lại. Không biết vì tuổi tác hay vì nỗi hoang mang. Tôi nhìn T., muốn bảo nó rằng mày lucky như vẫn thường nói, nhưng sự hiện diện của người đàn bà làm tôi bối rối.

Chắc T. hiểu ý tôi.

“Chuyến này dừng bước giang hồ.” T. nói cái câu nó thường hay nói mỗi khi trở về sau một thời gian bặt tông tích.

Tôi cười với tia nhìn lấp lánh cơn vui của người đàn bà.

T. hiểu. Hắn đứng ép sát người đàn bà, vòng hai tay ôm quanh hông nàng. Tôi nhìn hai bàn tay củi khô xoắn lấy nhau trên bụng người đàn bà, lòng nhói lên chút gì đó như một oan ức không nguôi.

“Thật đó! Chuyến này nhất định dừng bước giang hồ.”

“Đi kiếm gì ăn đi anh.” T. đề nghị.

“Ở đây có tiệm Việt Nam không anh?” Người đàn bà ngọt ngào câu hỏi.

Tôi kể tên của vài quán ăn quen.

“Mình đi ăn ở tiệm nào đây anh?” Người đàn bà hỏi.

“Tiệm nào cũng ô-kê hết.” T. trả lời.

Thế là ba đứa kéo nhau đi ăn tiệm. Nhưng trước khi bước ra cửa, tôi không quên chạy lên phòng ngủ, thay vội bộ quần áo, rồi lướt vào nhà tắm, vớt nước lên mái đầu rậm rì những tóc. Tôi nhìn mình chăm chú trong tấm gương soi. Mấy sợi lông mũi chĩa ra như châm chọc. Tôi loay hoay nhổ, nhưng tiếng T. đã réo vang ở tầng dưới. Hai đứa nó chắc đói bụng lắm rồi.

T. lái chiếc xe Nhật Bản. Trước khi mở cửa xe cho tôi chui vào, hắn nháy mắt với tôi, “Đừng hỏi gì nghe ông anh.”

Tôi trả lời ô-kê và lầm lũi chui vào băng sau. Mùi da bọc nệm ghế xoáy vào lỗ mũi nồng nồng. Jackie ngồi phía trước, nghiêng đầu dựa vào vai hắn. Những ngón tay người đàn bà táy máy những nút bấm giàn đèn xanh đỏ trước mặt.

Chuyện mưa nắng thời sự nổ vang trên đường đi. Tụi Mỹ đánh I-rắc ghê quá anh nhỉ. Thằng T. hăng hái đổi sang đề tài chiến tranh. Tôi không để ý gì mấy đến chuyện chiến tranh. Tôi đã hưởng đủ mùi vị chiến tranh ở Việt Nam ngày trước, dù lúc ấy tôi mới chỉ là thằng bé con chưa ráo máu đầu. Thành ra tôi cứ ậm ừ với chuyện ôm bom tự sát, chuyện thánh chiến nọ kia.

Xe ngừng. Tôi bước vội ra ngoài, lừng khừng đứng chờ.

T. chạy qua mở cửa cho Jackie. Hắn học cái kiểu cọ văn minh này từ lúc nào thế không biết. Lúc người đàn bà xoay người, đưa chân ra ngoài, tôi bắt gặp một khoảng thịt da trắng ngần. Tới bây giờ tôi mới nhận ra chiếc váy ngắn trên đầu gối mầu da bò Jackie mặc.

Tô phở nguội mau trước mặt tôi. Tôi đã cố lắng nghe tiếng nhạc vọng ra từ những chiếc loa treo ở một góc trần nhà. Người ca sĩ đang nỉ non về một tình yêu dang dở. Nhưng lời ca tình tứ không át được cái giọng ba người đàn bà ngồi ngay ở chiếc bàn trước mặt tôi.

Con mụ có giọng nói nặng nề (tôi không kể tên vùng đất ấy ra kẻo người ta lại bảo là tôi kỳ thị) như thể đang vừa nói vừa trệu trạo nhai miếng cháy cơm nguội. Con mụ kể chuyện người quen nào đó du lịch Việt Nam, ăn quà vặt, ngộ độc, ói mật xanh mật vàng.

“Ăn yếu vậy anh!” Jackie nói. Tôi bối rối cười trừ.

Bỏ dở tô phở, tôi gọi một phần bánh hỏi thịt nướng, đem về nhà. T. gật gù. Phải rồi, để tối khỏi mất công nấu cơm. Tôi lặng thinh.

Buổi tối, lúc T. lái xe đưa Jackie đi quán cà phê Việt Nam, hát ka-ra-ô-kê, tôi cầm bọc bánh hỏi thịt nướng, qua gõ cửa nhà cô ấy.

Cô ấy ngơ ngác nhìn bọc đồ ăn trên tay tôi. Thằng bé Timmy mắt nhắm mắt mở, dụi mặt vào lưng áo mẹ.

“Ngủ chưa?” Tôi hỏi nhỏ.

“Ngủ chi sớm dzậy!” Cô nói với một nụ cười. Bao giờ câu nói của cô ấy cũng đi chung với nụ cười.

Cô ấy đỡ bọc đồ ăn trên tay tôi. Những đầu ngón tay chạm vào da lưng bàn tay tôi, mềm mại. Cái mềm mại dịu dàng bò lan trên lớp da sần sùi lớp vẩy thời gian. (Ơi thời gian, gã phù thủy biến tôi thành con khủng long già cỗi!) cái mềm mại ấy chạy vòng quanh trên da, như con ốc sên bò quẩn trên phiến đá mỏng hòn non bộ.

“Mua chi hoài dzậy?”

Miệng trách móc nhưng mắt cười biết ơn. Tôi lặng thinh ngắm bờ vai tròn, hồn bập bềnh theo dòng tóc chảy xuôi.

Thằng bé đưa tay sờ vào bọc đồ ăn, hai mắt tròn nhìn tôi, “Mommy, Timmy đói bụng.”

Tiếng vọng cổ vọng ra từ phòng khách. Bài ca quá trời là quen thuộc. Chiều nay én liệng trời cao, mây đào gieo khắp nẻo quê hương mù xa diệu viễn, mẹ ơi xuân năm nay chắc con sẽ không dzìa. Tôi cố nán lại, nghe cho xong câu vọng cổ.

“Cảm ơn nghe.” Cô nói.

Tôi trả lời không có chi rồi quay lưng trở về, lòng hân hoan một câu hát quen.

“Khoan!” Giọng thảng thốt của cô kéo sựng bước chân tôi lại.

“Mặt sao bầm vậy?”

Tôi lấp lửng, “Không sao đâu.”

“Té nữa phải hôn?”

“Đâu có...”

“Lại quên uống thuốc nữa phải hôn?” Cô ấy nhìn tôi bằng ánh mắt trách móc.

“Đưa thuốc đây, mỗi ngày nhắc giùm cho!” Đó là chút an ủi hiếm hoi mà chứng bệnh tàn khốc ấy đem lại cho tôi.

T. và Jackie về lúc quá nửa đêm. Hai đứa nó bỏ quên chìa khóa cửa trong phòng ngủ. Báo hại tôi phải ra mở cửa cho hai đứa. Jackie nhìn tôi, cái nhìn dài thườn thượt.
 
Chắc hai đứa nó uống nhiều bia lắm bởi lúc đứng nép qua một bên cho hai đứa lách vào, tôi đã nghe bao tử mình quặn lên vì hơi thở nồng nặc của chúng nó. Rồi cả đêm tôi bị dựng đầu dậy bởi tiếng mở cửa phòng ngủ với tiếng đóng cửa và giật nước nhà cầu.
 
Chúng nó làm cái giống gì mà lục đục suốt đêm.
 
Đêm ấy và những đêm sau nữa, tôi thường giật mình thức dậy lúc một, hai giờ sáng và trằn trọc mãi tới khi mặt trời mọc.
 
Hoàng Chính
 
Trân trọng giới thiệu
Thư Tình Viết Muộn
Liên lạc: [email protected]
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bây giờ trời đã tối, nhiều người đi ngủ sớm. Bọn trẻ học bài dưới bóng ngọn đèn dầu ở ngoại ô, ngọn đèn đường gần bờ sông. Trước hàng rào kẽm gai, một người lính mang súng đi đi lại lại, một đôi tình nhân đi chơi về muộn. Ngọn đèn hỏa châu sáng bừng góc trời một lát rồi tắt. Người yêu quê hương đã đi ra khỏi mảnh đất của những hận thù dai dẳng mà vẫn muốn trở về. Người nông dân muốn cày lại thửa ruộng của mình. Người thợ sửa đồng hồ muốn ngồi lại cái ghế vải nhỏ thấp của mình sau tủ kiếng bày đồng hồ cũ và mới. Lò bánh mì chiếu sáng nhấp nhô bóng những đứa trẻ bán bánh mì đứng trước cửa sổ với bao tải lớn đựng bánh nóng mới ra lò. Con chim về ngủ muộn biến mất trong bụi cây chỗ anh đứng.
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.