Hôm nay,  

Kẻ thù của Andy

27/08/202312:15:00(Xem: 2506)
Truyện

bullies istock 17814358 xlarge 682x408

Từ xa, Andy đã nhận ra ông Phillip trong bộ đồng phục lính cứu hỏa. Ông Phillip là người dẫn học trò qua đường. Ngã tư nầy không có đèn giao thông mà chỉ có những chữ STOP sơn màu đỏ to tướng trên mặt đường ở bốn hướng chỗ giao lộ. Vừa thấy Andy, ông Phillip liền đứng dậy, băng qua đón nó. Chân phải của ông hơi cà nhắc.
     Andy nhỏ nhẹ, lễ phép:
    – Chào ông. Ông khỏe không? Chân ông có đau lắm không?
    Ông Phillip cười:
    – Cám ơn con. Mọi sự Ok. Sao bữa nay con về trễ? Sao hổm rày con thay đổi đường về?
    Andy bối rối, cà lăm:
    – Dạ… không không không… có gì… chỉ tại vì vì vì con … thích thích thích con đường nầy.
    Ông Phillip nhìn trước nhìn sau, nhìn bên phải bên trái rồi một tay giơ cao tấm bảng nhỏ có chữ STOP, một tay dắt Andy.
    Vừa tới lề đường bên nầy, Andy vội vàng:
    – Cám ơn ông! Chúc ông buổi chiều tốt lành.
    – Hây! Đợi chút!
    Ông Phillip ngồi xuống chiếc ghế nhỏ đặt dưới bóng cây, chăm chú nhìn Andy:
    – Trông con có vẻ không ổn. Việc học của con thế nào?
    – Dạ tốt... Um… Con phải về nhà ngay bây giờ. Chào ông.
    Ông Phillip thở dài:
    – OK! Nếu có gì lo lắng hãy nói với ta. Ta rất vui nếu giúp được con  điều gì đó. Con là đứa trẻ ngoan hiền nhất trên đời nầy. Ta rất thương con.
    – Con cám ơn ông. Chào ông.
    – Chào con. Gặp lại con sáng mai.
    – Dạ.
    Andy vội bước đi. Nó vừa giấu được ông Phillip cái cục u bầm tím trên trán bằng cách giả vờ khum bàn tay che nắng. Hồi trưa, trong giờ chơi, nó đang đứng một mình chỗ bức tường sau lớp thì nhóm thằng Jose xộc tới. Jose phồng mang nạt nộ Andy:
    – Ê! Mở to mắt ra coi!
    – Mắt tao nhỏ mặc kệ tao. Còn mầy hãy về nhà ăn đậu đi!
    Thằng Steven cười sằng sặc:
    – Andy bữa nay ngon quá ta!
    Jose nhìn quanh quất, không thấy ai để ý, liền đấm vào trán Andy:
    – Tao ăn đậu thì mầy ăn chuối.  OK?
    Raymond gầm gừ:
    – Mầy méc với bất kỳ ai, tụi tao sẽ giết em gái mầy!
    Em gái của Andy là Betty. Betty đang học lớp ba tại trường tiểu học cạnh nhà. Betty vẫn được mẹ đưa đón đi học mỗi ngày nhưng dù sao Andy cũng lo sợ. Chuyện là tối qua, hai anh em đang ngồi học bài, Betty khoe:
    – Bữa nay con Brenda lầm bầm rằng em là đồ ngu đần. Em liền hỏi to: “Này, mầy vừa nói gì đấy?” Nó chối: “Ơ… tao có nói gì mầy đâu!” Con Mariana khen em: “Bạn giỏi lắm. Mình sẽ bắt chước bạn mỗi khi Brenda ăn hiếp mình.”
    – Ai dạy Betty cách làm như vậy với Brenda?
    – Cô giáo Davis. Cô bảo nếu mình bị ăn hiếp, mình phải làm gì đó, chẳng hạn nhìn thẳng vô mắt đứa ăn hiếp mình, la lên, hoặc thưa với thầy cô, hoặc nói với cha mẹ. Cô bảo mình đừng sợ nó, hễ càng sợ, nó càng ăn hiếp mình. Cô dặn dò nhiều lắm nhưng em chỉ nhớ bấy nhiêu thôi hà.
    Andy  đăm chiêu:
    – À há. Betty cừ lắm!
    – Có lần cô Davis nhờ Brenda phát bài kiểm tra nhưng em không nhận được, em biết ngay là nó ghét em nên giấu bài của em.
    – Sau đó thì sao?
    – Cô giáo không tìm được bài của em. Cô xin lỗi em. Cô nói đã ghi điểm em vào sổ rồi. Em cứ mím môi, chăm chăm nhìn nó. Nó liền quay mặt chỗ khác.
    Betty đã thành công khi phản ứng lại Brenda nhưng Andy thì không.  Andy đưa tay xoa xoa cục u. Nắm đấm của Jose đã cảnh báo nó. Cảm giác đau đớn, tủi nhục, xấu hổ trào lên làm cổ Andy như vướng phải cục đá nhọn. Tuần rồi, sau vụ xả súng kinh hoàng tại trường tiểu học ở Newtown, tiểu bang Connecticut, nhà trường cho học trò thực hành việc chống trả kẻ tấn công với tất cả những gì học trò có thể xử dụng, chẳng hạn cặp sách, giày dép… Cô giáo Beverly trấn an học trò:
    – Rất khó có chuyện tương tự xảy ra tại trường chúng ta, nhưng chúng ta thử tưởng tượng rằng nếu có, rằng trong tình thế bắt buộc, trong tình thế không có sự chọn lựa nào khác, chúng ta phải biết cách tự bảo vệ chúng ta.
    Rồi cô hướng dẫn học trò ném đồ vào kẻ tấn công (một hình nộm đặt trước cửa lớp). Ngay lập tức Andy lại là một nạn nhân của đám thằng Jose. Lúc cô giáo hô: “Bắt đầu”, chúng liền la ó và nhảy dựng lên như điên, rồi giả vờ vô ý ném giày vào chân Andy. Rồi chúng lại giả vờ xin lỗi Andy trước mặt cô giáo. Thằng  Bob lúc đó đang đứng cạnh Andy, tỏ vẻ nghi ngờ đám Jose. Bob nhẹ nhàng cầm tay Andy như để an ủi. Andy đau điếng nhưng cố gượng, cố không trào nước mắt, cố né tránh cái nhìn hả hê giễu cợt của chúng. Andy không muốn đón nhận ánh mắt thương hại của các bạn trong lớp, đặc biệt là Anita, cô bé ngồi cạnh nó.  Anita đã nhiều lần muốn làm thân với nó nhưng nó chỉ lịch sự ậm ừ cho qua chuyện. Thỉnh thoảng thằng Scott, thằng Antonio ở dãy bàn bên kia tới bắt chuyện với Andy nhưng Andy  phải né tránh vì bọn thằng Jose đã dọa: “Mầy không được phép chơi với bất kỳ đứa nào trong lớp, hiểu không?”
    Gia đình Andy mới chuyển về thành phố nầy.  Do đó, anh em Andy cũng phải chuyển trường. Ngay ngày đầu tiên vào lớp, Andy đã là một mục tiêu cho trò đùa cợt của bọn thằng Jose:
    – Ê, thằng mắt hí!
    – Ê, thằng lùn!
    – Tụi bây ơi, thằng Andy mặc áo của bố nó kìa.
    Steven hét to:
    – Không, đó là áo của ông homeless vẫn đứng ở góc đường Beach và đường
số 9. Tối qua tao thấy ổng mặc cái áo đó.
    Ba thằng reo lên:
    – À há! Chính xác! Rồi ông ấy đã vứt đi, rồi thằng mắt hí nhặt về.
    Ngày đầu tiên đó, Andy đã sợ hãi đứng im, hổ thẹn cúi gầm mặt. Bọn Jose cao lớn, vạm vỡ. Đặc biệt là Jose, có vẻ như đầu đảng, mới mười hai tuổi mà hình như nặng trên  một trăm sáu chục pounds, cao hơn năm feet. Còn Andy thì nhỏ con, lại gầy gò ốm yếu. Không bao lâu sau, Andy biết đám Jose sống trong chung cư cạnh nhà khi tụi nó làm rơi trái banh qua sân Andy. Chính Betty đã nhanh nhẹn tung quả banh qua cho tụi nó. Những chiều tan học, trên đường về nhà thực là cực hình cho Andy, bọn Jose hầu như vây lấy nó, chọc ghẹo nó. Và chúng rất ranh ma, hễ tới chỗ ngã tư, chúng giả bộ vui vẻ thân mật với Andy để che mắt ông Phillip, do đó cả tuần nay Andy phải thay đổi đường về.
    Andy đẩy cổng sau vào nhà. Ở một góc sân, mẹ nó đang ngồi trên chiếc ghế bành hút thuốc. Khói thuốc trắng xám bay lờn vờn trước mặt bà. Những tàn thuốc vứt bừa bãi, dày đặc như trải thảm quanh đó; vài vỏ rượu lăn lóc    –  hình ảnh nầy đã trở nên rất quen thuộc. Mẹ Andy chăm chăm nhìn cái chấm đen trên mái nhà kho, lảm nhảm những câu rời rạc:
    – Tôi đã mất tất cả… mất tất cả… Con mèo đen kia! Cút ngay khỏi nhà tao!
    Andy tới bên mẹ, nhỏ nhẹ:
    – Mom ơi, đừng hút nữa!
    Mẹ nó đứng bật dậy, nhìn nó với cặp mắt vô hồn.
    – Môi của Mom cháy đen rồi kìa.
    – Nhưng Mom cần thuốc lá để giảm căng thẳng.
    Betty từ nhà chạy ra, chui vào giữa mẹ và Andy, mũi hít hít:
    – Mom hôi quá hà.
    Người mẹ ngồi phịch xuống ghế:
    – Các con thông cảm cho mom... Không có thuốc lá, Mom chết mất.
    Sau khi ly dị, mẹ chúng bắt đầu hút thuốc uống rượu, ngày càng nặng. Bà thường ngồi như bức tượng với điếu thuốc đang cháy dở cùng gói thuốc và chai rượu trên đùi. Cứ điếu nầy sắp tàn, mẹ chúng lại mồi nối tiếp điếu khác. Và anh em Andy đã quen với việc mẹ không còn quan tâm tới chúng nữa. Bữa sáng, bữa trưa chúng được ăn trong trường. Tối, chúng thường ăn mì ly.
Thời gian bà ngoại còn ở đây, anh em Andy được chăm sóc rất chu đáo. Ngoại kêu Andy là thằng cu An, Betty là con bé Ty. Ngoại nấu thức ăn ngon ơi là ngon. Anh em Andy mê nhất món phở của ngoại. Ngoại còn nấu bò kho, làm bánh xèo, chiên chả giò… Từ lúc vắng ngoại, nhà cửa dơ bẩn, bếp núc lạnh tanh. Betty phải tự tắm nên tóc ít khi được suôn vì gội qua loa. Andy thì có khi mấy ngày không thay quần áo khiến cô giáo phải nhắc.  Hồi đó, hễ rảnh ngoại dạy tiếng Việt cho hai đứa. Ngoại nhắc nhở phải luôn nói tiếng Việt khi ở nhà. Nhờ vậy anh em Andy đã nói và viết được tiếng Việt khá rành. Mẹ Andy đã bảo lãnh bà ngoại sang đây nhưng được một năm ngoại quay về Việt Nam. Nghe đâu ngoại giận mẹ vì mẹ không  nghe lời ngoại, lại còn to tiếng với ngoại.
    Mỗi cuối tuần, ba Andy tới chở anh em nó đi đâu đó. Tuần rồi, ba cho hai anh em đi Knott’s Berry Farm chơi cả ngày. Ba phàn nàn Andy nhát gan quá. Trò chơi ngồi thuyền gỗ trượt nước chẳng có gì đáng sợ mà Andy nhắm tịt mắt lại, trong khi Betty mở to mắt, vỗ tay hò reo thích thú. Với các trò chơi cảm giác mạnh như những chiếc đu quay khổng lồ cuộn tròn lao vù vù tối tăm mặt mũi, những cầu vượt cao vút, hoặc tàu xoay nhiều vòng xoắn ốc uốn lượn lộn nhào… thì có lẽ Andy không bao giờ dám.
    Sáng thứ bảy, như thường lệ, mẹ đưa Andy và Betty đến nhà bà Mai để học tiếng Việt. Bà Mai là bạn thân của bà ngoại tụi nó. Ngoại đã gửi gắm chúng cho bà  Mai trước khi trở về Việt Nam. Mong ước của bà ngoại là anh em Andy giỏi tiếng Việt.
    Nhà bà Mai gọn gàng sạch bong. Anh em Andy sẽ được học chung với Vivian và Diane, hai đứa cháu của bà Mai. Vivian đang học lớp sáu.  Diane học lớp ba. Bà Mai đã chuẩn bị bữa ăn sáng ngon lành cho bốn đứa nhưng  Andy tỏ vẻ hững hờ. Trông nó ủ rủ, mỏi mệt, chán chường.
Bà Mai vui vẻ:
    – Kìa Andy! Ăn đi con?  Con phải ăn nhiều vào cho khỏe. Xem mấy đứa con gái ăn ngon lành nè.
    Betty ríu rít trò chuyện với chị em Vivian. Betty cảm tưởng như chị em Vivian sống ở một thế giới nào đó khác hẳn thế giới của nó. Nầy nhé, chị em Vivian luôn mặc quần áo đẹp, luôn sạch sẽ thơm phức. Hai đứa đều có mái tóc suôn mượt, dài tới tận eo, thường được thắt bím, đánh con tít, kẹp nơ rất đẹp. Nầy nhé, chị em Vivian có cái ipad, mà quan trọng là trong đó có vô số hình ảnh gia đình  đi du lịch nhiều nơi như Hawaii, Big Bear, Lake Tahoe, Grand Canyon… Nhiều lắm lắm. Chị em Vivian thường được dự tiệc tùng. Cả nhà họ lúc nào cũng cười tươi ơi là tươi. Betty thấy phát thèm.
    Bà Mai kiểm tra bài tập ở nhà của bọn nhỏ. Bỗng bà lặng người khi đọc dòng chữ bằng tiếng Anh dưới góc vở của Andy, được viết một cách cẩu thả, chểnh mảng: “I am gonna die.” Bà bần thần một lát. Tại sao? Tại sao một đứa trẻ mới mười hai tuổi lại có ý nghĩ đó? Bà xót xa nhìn anh em Andy. Nhói lòng thấy Andy buồn rầu, xanh xao, quá bé nhỏ so với độ tuổi của nó. Bà hiểu rõ hoàn cảnh gia đình tụi nó nên bà rất thương.
    Chiều, mẹ Andy tới rước con, bà Mai thầm thì gì đó với mẹ chúng.
   Ông già Phillip, tay cầm cái bảng STOP, khập khiễng băng qua đường đón Andy. Ông Phillip làm việc ở chỗ nầy đã hơn năm năm. Nhà ông gần đây nên khá tiện.
    – Andy! Trông con không được khỏe. Vai con rũ xuống kìa. Đầu con như muốn ngả chúi về phía trước kìa. Ta có thể giúp gì cho con?
    Andy cà lăm:
    – Dạ… Con con con… vẫn khỏe khỏe khỏe mà.
    Sang bên nầy đường, ông Phillip ngồi xuống ghế, trầm giọng, dịu dàng:
    – Đừng giấu ta. Ta biết con đang có vấn đề. Việc học thế nào? Bạn bè  đâu? Sao con không cùng đi với nhóm hàng xóm Jose, Steven, Raymond?
    Andy lại cà lăm:
    – Dạ dạ dạ… Con con con… không sao…
    Ông Phillip nói chậm rãi, tha thiết, dỗ dành:
    – Hãy nói ta biết. Ta hứa sẽ giữ bí mật nếu con muốn.  Andy, ta rất yêu con. Ta rất muốn giúp con. Hãy cho ta cơ hội làm gì đó cho con.
    Andy do dự:
    – Nhưng…
    – Nhìn kìa! Buổi chiều đẹp quá phải không con?
    Hai ông cháu cùng ngước nhìn bầu trời mênh mang, xanh biêng biếc, không hề vướng một gợn mây. Trên sợi dây điện gần đó, bầy chim sẻ đang ríu ra ríu rít. Những bông hồng trong sân các ngôi nhà hai bên đường đang nở rộ, thoang thoảng hương thơm. Ông Phillip hít hà:
    – Ồ, mùi thơm thật dễ chịu. Nào Andy, chuyện gì đó đang xảy ra với con, phải không?
    Andy chần chừ:
    – Nhưng… ông phải hứa là ông không nói với bất kỳ ai…
    – OK, ta hứa.
    Andy bỗng ngồi bệt xuống đất, khóc òa lên:
    – Ông ơi, bọn thằng Jose dọa, nếu con nói với bất kỳ ai, tụi nó sẽ giết em con. Ông ơi, con không muốn đi học nữa. Con chán tất cả. Con chỉ muốn chết quách đi cho rồi. Con sợ tụi nó lắm ông ơi. Có phải tại con là người Việt Nam duy nhất trong lớp nên bị chúng bắt nạt? Chúng thường kêu con là mắt hí, thằng cà lăm, dân ăn chuối.
    Ông Phillip xoa vai Andy, vỗ về:
    – Vậy là ta đã đoán đúng. Chúng hà hiếp con dữ lắm phải không?  Có điều… mắt hí đâu phải là mắt xấu. Thậm chí ta thấy đôi mắt con rất đẹp, rất hiền từ. Còn chuối thì rất tốt cho sức khỏe. Bác sĩ vẫn khuyên ta ăn chuối mỗi ngày. Hơn nữa trong lớp con còn nhiều bạn là người Đại Hàn, người Trung Quốc, người Nhật, Thái Lan… phải không? Thực ra bọn nhóc Jose không phân biệt rõ các dân tộc châu Á đâu. Cà lăm ư? Con chỉ cà lăm chút xíu khi con không tự tin, phải không?  Cà lăm chút xíu chẳng sao cả! Ta nghĩ chúng bắt nạt con vì lý do khác.
    – Lý do gì? Thưa ông.
    Ông Phillip chăm chú nhìn Andy, miệng vẫn nở nụ cười hiền từ:
    – Vì con sợ hãi chúng! Vì con quá nhút nhát!
    Andy lí nhí:
    – Dạ… đúng vậy! Con rất sợ chúng nó. Mà… ông phải hứa là giữ bí mật cho con về chuyện tụi nó nhé!
    – Ta hứa! nhưng ta muốn con phải xé toang nỗi sợ hãi trong con ngay lập tức. OK?  Rồi con phải làm cái gì đó để chúng không dám bắt nạt con nữa.
    Andy lại cà lăm:
    – Con con con… rất rất rất… lo lo lo… cho Betty, em em em của của… con.
    – Andy, con thực sự là chàng trai tốt. Bọn thằng Jose thật đáng trách. Nhà Jose cùng dãy với nhà ta.  Ba nó nghiện rượu, thường đánh đập mẹ nó. Mới tối qua cảnh sát chở ba nó đi rồi.
    – Ba nó có đánh nó không hả ông?
    – Làm sao khỏi? Chính nó gọi 911 đó.
    – Ông ơi, nhóm Jose còn hút thuốc nữa! Bữa nọ tụi nó đưa điếu thuốc bắt con hút, con không chịu, chúng bèn đè con xuống, nhét điếu thuốc vào miệng con làm con ho sặc sụa.
    Ông Phillip thở dài.
    – Chà, mấy đứa đó hư quá rồi!
    Suy nghĩ một lát, ông nói:
     – Bây giờ… thế nầy nhé Andy! Trước hết con phải tập đi cho thẳng. Nào, hãy đứng dậy để ta tập cho con đi. Con phải thẳng lưng! Phải ngẩng đầu lên! Một hai ba! Chưa được, lưng con vẫn còn khom và đầu con vẫn còn chúi về phía trước… Cố lên Andy! Đi tới đi lui cho ông coi nào. Một hai ba…  OK, vậy đó con. Dễ ợt mà. Trước hết con chỉ cần làm như vậy. Hiểu chưa? Đi tới lui nhiều lần cho ta xem nào. Tốt! Hãy bắt đầu ngay từ bây giờ, ngay từ bây giờ, con hiểu không.  Phải tập đi, phải sửa dáng. Tốt! Con đi như vậy trông con cao lớn và khỏe mạnh hơn hẳn. Ồ! Con đã có dáng đi đẹp rồi đó.
    Andy cười sung sướng:
    – Cám ơn ông. Nhưng đi như vậy để làm gì?
    Ông Phillip cười ha hả:
    – Để con không bị bọn thằng Jose ăn hiếp nữa. Hiểu không? Dáng đi trước đây của con khiến đám Jose tưởng con yếu đuối nên bắt nạt con.
    – Chỉ vậy thôi sao?
    – Ừ, có thể nhóm thằng Jose bị ảnh hưởng bởi phim ảnh và những game bạo lực, hoặc bị ảnh hưởng từ gia đình… Ông tin, nếu được dạy dỗ đàng hoàng, chúng sẽ không làm những điều tồi tệ như vậy đối với con hoặc có thể với nhiều đứa khác nữa.
    – Ông ơi, nếu ngày mai chúng trêu ghẹo con, con phải làm sao?
    – Con phớt lờ chúng. Làm ra vẻ không thèm quan tâm tới chúng. Quan trọng là con hãy đi như ta đã dạy.
    – Nhưng… nếu chúng xông vào đánh con…
    – Ừm… Con cố đừng để chúng có cơ hội. Ví dụ lúc nào con cũng ở chỗ đông người, hay ít nhất có vài người.
    – Nhưng… đâu phải lúc nào con cũng có ai đó bên cạnh…
    – Ừm… thế nầy nhé, nếu chỉ mỗi mình con với chúng, rồi chúng đánh con. Coi nào! Con hãy thả cặp xuống đất. Rồi con thẳng người, ưỡn ngực, nhìn trừng trừng vào mắt chúng như thể muốn ăn tươi nuốt sống chúng, như thể muốn nghiền nát chúng. OK?  Rồi con hét to thiếu điều bể phổi, rồi con xông tới tấp vào chúng. Con vừa la hét vừa xông vào. Nếu chúng đè lên con, con vùng vẫy với hết sức lực của mình. Ông tin con sẽ thắng.
    Andy băn khoăn:
    – Nhưng… lỡ cảnh sát bắt con vì con đánh bạn…
    – Không bao giờ cảnh sát lại ngây ngô đến nỗi cho rằng một mình con có thể bắt nạt được ba thằng to xác kia. À, điều quan trọng là con không được dùng bất kỳ vũ khí gì. Hiểu không? Nhớ nhé! Không được dùng bất kỳ vũ khí gì! Đôi mắt con sẽ thiêu cháy chúng. Cái miệng con sẽ hét vỡ mặt chúng. Cái đầu của con sẽ húc bể bụng chúng. Chân tay con sẽ đấm đá túi bụi vào chúng, cho xương chúng nát vụn ra. OK?
    Andy hồi hộp:
    – Thực vậy hả ông? Nghĩa là con sẽ thắng chúng?
    Ông Phillip chậm rãi, quả quyết:
    – Chắc chắn con sẽ thắng chúng nếu con không còn sợ hãi, nếu con dám chống trả với tất cả sức lực của con. Andy! Con biết kẻ thù của con là ai không?
    – Là bọn Jose.
    Ông Phillip cười ha hả:
    – Không phải! Kẻ thù của con đang nằm ngay trong con. Đó là nỗi sợ hãi, là sự nhút nhát của con.
    Andy ngẩn ngơ hồi lâu. Trông nó có vẻ suy nghĩ lung lắm. Ông Phillip mỉm cười theo dõi diễn biến trên nét mặt Andy. Bỗng Andy ôm chầm ông Phillip, xúc động:
    – Ông ơi, con cám ơn ông nhiều lắm.
    – Ta cũng cám ơn con, bởi con đã tin cậy ta và cho ta niềm vui được giúp con. Nào! Hãy nhớ những gì ta đã dặn dò. Ta tin chắc con sẽ vượt qua được nỗi sợ hãi trong con. Và đương nhiên con sẽ thắng được đám hư hỏng kia.
    – Dạ con cám ơn ông. Chào ông.
    Ông Phillip nhìn theo Andy, gật gù hài lòng. Tuy còn lúng túng vụng về nhưng Andy đã bước được những bước chân khá dài, khá vững chãi, lưng thẳng, đầu ngẩng cao.
    Ngày hôm sau, khi Andy bước vào trường với dáng đi mà ông Phillip đã dạy, bọn thằng Jose tinh quái ngay lập tức phát hiện ra. Lúc lên bảng làm toán, thằng Raymond cố tình đi ngang Andy, gầm gừ đủ cho Andy nghe:
    – Bữa nay mầy làm bộ làm tịch dữ ha?
    Andy phớt lờ, coi như không nghe không thấy. Lúc về chỗ, Raymond cố tình va vào bàn Andy, rồi đâm mạnh đùi Andy bằng cây bút chì gọt nhọn:
    – Cái mặt mày kênh kênh trông ngứa mắt quá.
    Tan học, Andy hòa vào dòng học trò đi ra cổng. Và như cả tuần nay, Andy nhìn quanh quất không thấy bọn Jose, liền lao nhanh ra con đường nhỏ ở hướng ngược lại để tránh bọn chúng. Không ngờ, khi Andy vừa tới chỗ khúc quanh vắng vẻ, bộ ba Jose, Raymond và Steven bỗng ùa ra, đập Andy tơi bời. Thằng Steven đè Andy xuống, bịt miệng Andy. Hai thằng kia đấm đá Andy tới tấp. Ngay lúc ấy có chiếc xe chạy tới, ba thằng bỏ chạy. Sự việc chỉ xảy ra trong thoáng chốc. Andy ngồi bật dậy, nhìn theo chúng, nghiến răng căm phẩn cùng cực. Không muốn để ông Phillip thấy mình trong tình cảnh nầy, Andy tìm đường khác xa gấp ba lần để về nhà. Mẹ Andy vẫn đang ngồi như tượng ở góc vườn, hút thuốc, uống rượu. Hình như bà không thấy đứa con trai mở cổng bước vào.
    Sáng, Andy lững thững mang ba lô tới trường. Từ xa, thấy ông Phillip đang dắt học trò qua đường, Andy liền vươn vai, ưỡn ngực, ngẩng đầu lên mà đi. Nó tự trách rằng chỉ có việc đi cho đẹp mà cũng quên. Rồi không hiểu sao, Andy bỗng quay hướng khác, tìm con đường khác để tránh mặt ông Phillip. Vừa bước vào trường, Andy đã thấy đám Jose đang đứng trước cửa lớp. Chúng nhìn Andy, cười một cách giễu cợt, khoái trá. Andy tảng lờ như không thấy chúng, tỉnh queo đi vào chỗ ngồi. Ra chơi, Andy với dáng đi mà ông Phillip đã dạy, tiến tới chỗ bọn thằng Jose. Ba thằng đang ăn chip. Andy vừa mỉm cười một cách khó hiểu, vừa nói rõ ràng và chậm rãi:
    – Ê! Tụi bay có dám đánh nhau với tao không?
    Ba thằng trố mắt kinh ngạc như thể trông thấy người ngoài hành tinh:
    – Cái gì? Mầy vừa nói gì hả thằng mắt hí?
    Vẫn giữ nụ cười khó hiểu, Andy dằn từng tiếng, rất chậm và rất rõ:
    – Tụi bay có dám đánh nhau với tao không? Hẹn nhau đánh đàng hoàng. Đừng
đánh lén! Hèn lắm!
    Thằng Raymond xông tới sát Andy:
    – Mầy gài bẫy tụi tao hả?
    – Không! Tao không thèm làm những việc hèn. Nầy nhé, cũng chỗ hôm qua. Khi tan học. OK?
    Ba thằng kia nhìn nhau, lưỡng lự một thoáng rồi đồng thanh:
    – OK!
    Thằng Raymond vừa nhai nhồm nhồm, vừa nói:
    – Ê thằng điên, hãy nhớ rằng nếu mầy méc với bất kỳ ai về tụi tao, mầy và con Betty sẽ bị giết, OK?
    Andy lại dằn từng tiếng, giọng lạnh lùng đến nỗi chính nó cũng kinh ngạc:
    – Dĩ nhiên tao nhớ. Tao luôn luôn nhớ tất cả, tất cả những gì chúng mầy đối xử với tao.
    Rồi Andy bỏ đi. Đi một cách tự tin với dáng đi ông Phillip đã dạy. Thêm nữa, Andy còn nắm chặt hai bàn tay lại, nghiến răng: “Tao quyết sống chết với tụi bay! Tao thà chết chứ không sợ tụi bay nữa. Dù sao, nếu tao phải chết thì tụi bay sẽ không đòi giết Betty nữa!”
    Andy làm đúng như lời ông Phillip dạy. Nó húc. Nó đấm. Nó đá. Nó hét.  Nó gào. Nó la.  Lồng ngực của nó như phình to lên, muốn vỡ tung ra.  Nó cào. Nó cấu. Nó gầm. Nó thét. Nó vung chân đá loạn xạ ngầu... Mắt nó hừng hực đổ lửa. Hai tay nó múa may quay cuồng như dại như điên. Lúc đầu ba thằng kia có vẻ hơi hoảng sợ nhưng chỉ trong thoáng chốc, ba thằng quật ngã Andy. Có điều chúng không khóa được miệng Andy. Andy tha hồ thét gào. Tha hồ gầm rống. Có lẽ nó thét gầm không phải để thị uy, mà để trút bỏ hả hê tất cả nỗi đau đớn nhục nhằn, tất cả lòng căm giận dồn nén bấy lâu nay. Nó dồn tất cả sức lực để gầm thét một cách sung sướng, khoái trá, đã đời. Hình như nó đã hoàn toàn mất cảm giác với những cú đấm đá kinh người của bọn Jose.
    Bỗng có tiếng còi xe cảnh sát rú lên. Nhóm Jose bỏ chạy nhưng không kịp. Thế là cả đám bị đưa vào xe.  Riêng Andy được nằm trong xe cấp cứu. Nó vẫn tiếp tục gào lên như điên như dại với cái miệng đầy máu, với cái mặt đầy máu. Rồi nó không còn hay biết gì nữa.
    Andy mở mắt ra. Quanh nó là ba mẹ nó, Betty, ông Phillip và bà Mai. Con Betty chùi nước mắt, thút thít:
    – Anh Andy đừng chết nha!
    Ba nó vỗ vỗ bàn tay nó, nhìn nó với ánh mắt ấp áp yêu thương. Mẹ nó hôn nó:
    – Mom xin lỗi con. Mom quả thực là người mẹ xấu nhất trên đời nầy. Mom xin lỗi…
     Andy rất muốn nói với mẹ rằng, Mom không có lỗi gì hết, chính con mới có lỗi nhưng nó không thể.  Bữa nay mẹ không hôi mùi thuốc lá, mùi men rượu. Hương tóc mẹ thơm phức. Andy nghe ê ẩm khắp cả người. Nó cố nở nụ cười yếu ớt. Ông Phillip cúi xuống thì thầm vào tai Andy:
     – Con thực sự là một anh hùng! Không thấy con về nên ta đi tìm. Từ xa ta đã nghe tiếng thét của con. Tình thế buộc ta phải gọi cảnh sát.  
    Andy không thể lên tiếng, họng nó đau buốt.
    – Đừng nói gì hết. Con gào thét thiếu điều muốn rách cả bầu trời với cái cổ họng bé nhỏ mỏng manh của con.
    Bà Mai cũng hôn nó, chúc nó mau khỏe để bà dạy tiếng Việt cho. Andy đâu biết rằng sau khi đọc dòng chữ đáng sợ của Andy, bà Mai đã lặng lẽ theo dõi nó và bà đã có mặt kịp thời.
    Hôm sau, cô Beverly vào thăm Andy. Cô xin lỗi nó. Cô lặp đi lặp lại rằng cô rất tiếc, rất tiếc đã không biết để ngăn chặn sự việc tồi tệ nầy xảy ra. Andy viết lên giấy: “Em cám ơn cô. Cô không có lỗi. Em mới là người có lỗi.” Cô giáo tròn mắt ngạc nhiên. Andy tiếp tục viết: “Lỗi của em là quá nhút nhát, quá sợ hãi.”
    – Ồ, Andy! Em thật tuyệt vời! Cô không thể hiểu nỗi tại sao em có được suy nghĩ như thế? Nhưng dù sao cô cũng đã có lỗi.
   Andy nhoẻn cười, viết: “Ông Phillip dẫn đường đã dạy em như vậy.” Cô Beverly mang cho nó một con gấu bông trắng thiệt bự và tấm thiệp chi chít tên của các bạn trong lớp kèm theo những chúc tốt lành. Đầu tiên là các bạn ngồi gần nó như Anita, Michelle, Ryan, Kevin, Minjae, Aya…  Rồi dưới cùng có cả tên Jose, Raymond và Steven.

 

– Trương thị Kim Chi

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.