Hôm nay,  

Chuyện ăn

12/09/202309:59:00(Xem: 3207)
Phiếm

IMG_7124

Chúng ta “ăn để mà sống” hay “sống để mà ăn”? Tôi vẫn nghĩ rằng, mọi người đều phải trải qua cả hai giai đoạn kể trên, khi còn trẻ sung sức thì “sống để ăn”, và khi tuổi về xế chiều thì “ăn để sống”.
    Vì tôi sinh ra với cái nốt ruồi trên khóe miệng nên máu “ăn hàng” có trong tôi từ bé, đâu phải tự dưng má gọi tôi là con “Mỏ Khoét”. Nhà tôi có quán nước giải khát, má bận cả ngày với khách hàng, tôi vẫn tranh thủ xin tiền má rồi chạy biến qua các hàng quà vặt trong xóm với các món hàng mê mẩn bất cứ đứa bé nào: kẹo bột, bánh tráng, bánh sữa mặt trăng, bánh tay cùi... để rồi ngày nào tôi cũng chán cơm vì bụng đã no nê. Có lần má cầm cây roi, rồi để cái bánh bông lan bên cạnh, bắt tôi phải ăn xong chén cơm nếu muốn có bánh bông lan, hoặc là ăn roi. Tôi còn ganh tỵ với cả đứa cháu trai nhỏ hơn tôi bốn tuổi, bữa nào tôi đi học về mà thấy cái miệng nó ướt ướt, tôi sà vào hít hà miệng nó, thấy mùi xá xị là lên cơn õng ẹo đòi má phải khui cho tôi một chai, nhưng má cương quyết không cho, nào vì tiếc chai xá xị, mà má ra điều kiện “Mỏ Khoét” phải ăn cơm xong mới có xá xị. Thích nhứt là khi ấm đầu sổ mũi, tôi có “đặc quyền” điểm danh các hàng phở, mì gõ trong xóm để má sai người đi mua về cho tôi dưỡng bệnh.
    Lớn lên vào tuổi niên thiếu tung tăng đến trường thì chuyện ăn hàng là... đương nhiên. Có cô học trò nào không say sưa ăn vặt? Các quán xá trước cổng trường, vỉa hè lề đường suốt con đường đi học, lũ chúng tôi rành rọt còn hơn thuộc bài. Cóc ổi xoài ngâm chấm muối ớt cay xè, kem chuối lạnh có đậu phộng giã nhuyễn bùi bùi, khoai mì trộn dừa ôi mê ly, khoai lang chiên giòn, hôm nào có nhiều tiền thì vào hàng chè nóng, ôi các thau chè bắt mắt làm chảy nước miếng của những tâm hồn đam mê ăn uống: chè táo xọn, chè đậu, chè thưng, chè khoai môn, chè bà ba thơm ngọt ngất ngây.
    Khi tôi lên trung học, mức độ ăn hàng cũng... tăng theo cấp lớp. Ngày ngày đạp xe ra Sài Gòn học thêm luyện thi đại học, chúng tôi không bỏ sót bất cứ lời đồn nào về các món ăn khắp bốn phương trời. Nào gỏi đu đủ khô bò trước Chùa Xá Lợi, chè đá đậu Lý Chính Thắng (trước 1975 là Chè Yên Đổ lừng danh), bún bò Kỳ Đồng, bánh cuốn Văn Hoa ĐaKao, bột chiên hẻm Chu Mạnh Trinh Phú Nhuận. Các nẻo đường ăn hàng luôn luôn là hình bóng ấp ủ trong trái tim tôi, chớ hổng phải hình ảnh... thằng bạn nào hết á!
    Đó là các quán ăn bên ngoài, còn các món ăn vặt trong xóm thì khỏi nói, tôi cũng có mặt đầy đủ. Sát bên nhà tôi là chị hàng xóm có tủ trái cây, khoảng giờ trưa là chị bày hàng, các miếng xoài, dưa hấu, đu đủ được cắt gọn gàng tươi mát, phủ một lớp đá bào lên trên, là món giải khát tuyệt vời của mùa nóng bức. Thấy tôi vừa dắt xe khỏi cổng nhà chuẩn bị đi học thêm, chị cười duyên với tôi:
    – Mở hàng giùm chị đi em, đu đủ mới cắt nè, ngọt lịm luôn đó.
    Tôi vội vàng:
    – Thôi chị, em phải đi học ngay, kẻo trễ giờ.
    – Nhưng em ơi, “vía” của em rất tốt, lần trước nhờ em mở hàng mà chị bán sạch tủ trái cây trong vài tiếng đồng hồ, em làm ơn đi mà.
    – Chị làm em khó xử quá, thôi chị đưa đây, chút em ăn sau, tiền bạc em không có sẵn nhe.
    – Ối, em đừng lo, khi nào rảnh thanh toán luôn một thể.
    Từ đó, trưa nào chị cũng rình tôi vừa dắt xe ra là quăng liền 1 bịch đu đủ đá bào lên giỏ xe đạp của tôi (chính xác không thua gì các cầu thủ bóng rổ ném banh), kèm theo một nụ cười mãn nguyện sung sướng.
    Ở ngôi chợ nhỏ trong xóm, có bác Mộc là người còn giữ nét Bắc Kỳ dù di cư vào Nam đã lâu, bác vẫn vấn khăn trên đầu, mắc áo yếm lót bên trong chiếc áo cánh màu trắng mỏng. Bác bán các món Bắc thanh lịch như xôi vò, chè bồ cốt, rượu nếp, bánh trôi. Hôm đó bác làm món mới, là bánh cam ngào đường (không phải loại bánh cam nhận đậu xanh ngọt có mè bên ngoài, mà bánh cam nhân đậu xanh mặn xào hành lá, bên trên vỏ bánh là một lớp đường ngả màu óng ánh), là món ... ruột trong vô vàn món ruột của tôi, nên tôi có mặt từ sớm để mua trước khi đi học. Được vài hôm không thấy tôi mua nữa, bác gặp tôi trong xóm, liền hỏi:
    – Sao mấy hôm nay cô không mua bánh cam, ngán rồi ư?
    Tôi nhăn mặt tiếc nuối:
    – Thú thiệt với bác, đêm nào con cũng học bài đến khuya, sáng ngủ dậy chỉ kịp giờ đi học, con không thể thức dậy sớm hơn để ra chợ mua bánh, dù lòng con rất muốn, rất thèm.
    Bác Mộc hớn hở:
    – Tưởng gì! Vậy thì mỗi sáng sớm trên đường dọn hàng ra chợ, tôi tạt qua nhà đưa bánh cho cô, tiền bạc cứ để đấy, tính sau.
    – Dạ thôi, phiền lắm bác ơi.
    – Có phiền gì đâu, chỉ thêm vài phút thôi mà, cái chính là tôi muốn được cô... mở hàng.
    Tôi kêu thầm trong bụng “ nữa hả? cái vụ mở hàng !?” rồi hỏi bác:
    – Mà sao bác cần con mở hàng chớ, xóm này thiếu gì người?
    – Ối dào, chỉ có cô mới có cái nốt ruồi ngay khóe miệng, mở hàng là bảo đảm đắt như tôm tươi, cấm có sai nhé.
    Cũng giống như với chị bán đu đủ đá bào, tôi đành ngoan ngoãn dạ vâng, coi như đôi bên cùng có lợi, tôi có bánh cam ăn sáng, bác có tôi mở hàng. Ngày hôm sau bác đến gọi cổng khi tôi còn ngủ, may mà có ông anh sáng nào cũng dậy sớm tập tạ trước sân nhà, nên anh nhận bánh cam giúp tôi vì anh nghĩ chắc có chuyện đột xuất, hoặc tôi không được... khỏe. Nhưng vài ba ngày sau nhận bánh liên tiếp, anh liền mắng tôi:
    – Em học đâu ra cái thói “con nhà lính tính nhà quan” thế kia? Từ đây ra chợ vài chục bước chân, sao lại hành người ta như thế.
    Ui choa, cái này là “oan thị Kính” chớ không phải “oan Thị Màu”, nhưng dù tôi có phân bày thế nào, anh vẫn lạnh lùng ra lệnh: “dẹp ngay!”
    Tôi và bác Mộc đều rất buồn, nhưng biết làm sao hơn. Để bù lại, vào cuối tuần, sau khi ngủ nướng đã đời, tôi đi bộ ra chợ, ngoài phần bánh cam bác đã để dành như tôi dặn, tôi còn ngồi xuống ăn bát xôi vò trộn chè bồ cốt, dù tôi không còn mở hàng nhưng bác Mộc rất vui vì tôi vẫn là khách hàng thân quen.
    Cái thuở “sống để ăn” ấy đã trôi qua lâu rồi, vì ngày nay, khi bước qua tuổi 50 trở đi, nhìn bạn bè và anh chị em trong nhà bắt đầu có dấu hiệu “cao nọ cao kia”, bác sĩ dặn dò “kiêng nọ kiêng kia”, tôi bắt đầu bước vào giai đoạn...“ ăn để sống”. Người may mắn được tôi chọn đồng hành “ăn để sống” chính là chồng tôi, vì dù sao anh ấy cũng già hơn tuổi hai tuổi, còn lưu luyến gì cái thời “sống để ăn” nữa chớ.
    Thế là chương trình được áp dụng ngay luôn, bớt mỡ bớt đường, ăn nhiều rau, uống nhiều nước, đi bộ mỗi ngày ít nhất 30 phút, ăn bánh mì nâu, nhiều hạt, tránh thịt đỏ, bổ sung nhiều vitamin vân vân và vân vân.
    Thời gian đầu, chồng tôi cũng hăng hái tham gia nhưng rồi có ngày bỗng than thở:
    – Hễ em xem google nói gì là bắt anh thực hành, uống sữa uống nước, rồi nước chanh, nước artichoke, probiotic Kefir yogurt, bột nghệ, riết bụng anh no ngang, còn ăn được gì nữa đâu.
    – Chẳng phải đó là mục đích của chúng ta, ăn ít cơm ít thịt đó sao?
    – Em còn kiểm soát cả lunch bag mỗi khi anh xong việc về nhà, có hôm gần tới giờ đi ngủ, anh đang xem trận hockey chung kết gay cấn, em bỗng xuất hiện ở cửa phòng với ly nước trong tay, bảo rằng anh chưa uống đủ tám ly, làm anh chia trí lỡ một pha ghi bàn trên ti vi.
    Nói tới lunch bag, đúng là tôi có theo dõi chặt chẽ vì tôi biết tiệm quá bận rộn, chuyện quên ăn, quên uống đôi khi vẫn xảy ra. Có hôm, thấy trái quít còn trong lunch bag đem về, tôi hỏi lý do, anh bảo vì gấp gáp nên không có thời gian lột vỏ. Chuyện nhỏ, lần sau tôi lột sẵn trái quít, bọc plastic wrap gọn gàng, chồng đừng hòng lý do lý trấu gì nữa nhé.
    Rồi chồng tôi hờn mát:
    – Ở tiệm thuốc, anh là người hướng dẫn khách hàng vấn đề sức khỏe, còn về nhà thì phải... nghe lời em!
    Sao bữa nay anh ấy “mong manh dễ vỡ” vậy cà? Mà thôi, các đấng đàn ông cũng là con người biết buồn biết vui biết chạnh lòng, và nhất là đều... hảo ngọt, tôi bèn tung kế “dịu dàng”:
    – Anh thừa biết em làm vậy vì lo cho anh quá bận không còn thời giờ chăm sóc bản thân, đúng không? Thôi anh hãy ráng cùng em tiếp tục ăn uống “kham khổ” trong tuần, đến cuối tuần em lại nấu những món phở, bún chả giò, bánh canh, hủ tíu. À, tuần này nhà có nhiều rau thơm ngoài vườn, em sẽ làm món bánh xèo anh yêu thích đấy nhé.
    Nói đến bánh xèo là tôi nhức đầu, vì thỉnh thoảng tôi mới đổ bánh xèo nên nhân tiện làm luôn hai bịch bột, để cả nhà cùng ăn, rủ thêm hai người bạn thân thiết cho vui. Một người là cô bạn single mom ăn chay trường, còn người kia là nhỏ em cùng xóm mà tôi là má đỡ đầu hai đứa con gái của nó, chồng nó đi làm xa. Đổ bánh tuy có mệt, nhưng chưa mệt bằng việc phải nhớ đổ bánh cho đúng ý từng người, này nhé:
    – Đầu tiên phải đổ mấy cái chỉ có nấm và tàu hũ cho cô bạn ăn chay.
    – Tiếp theo, con gái tôi: nhiều tôm, ít thịt, không giá.
    – Thằng fiance của con gái: không onion, không mushroom, nhiều giá.
    – Con trai tôi: không mushroom, không tôm, ít giá.
   – Hai đứa con gái đỡ đầu: không giá, không onion, không đậu xanh, không mushroom, không thịt, nhiều tôm và tàu hũ.
    – Cuối cùng mới đổ cho vợ chồng tôi và nhỏ em hàng xóm thuộc nhóm thích đủ thứ, hổng chừa thứ gì.
    Ăn bánh xèo trong nhà mà còn phức tạp, chín người mười lăm ý, thì nói chi cuộc đời, người ta bất đồng ý kiến, goánh nhau chửi nhau như mổ bò rồi tha hồ “chụp mũ” cho nhau. Có lần đổ xong bánh, tôi bày la liệt trên kitchen counter, rồi đi dọn dẹp mọi thứ, lúc quay lại không thể nhớ dĩa nào là dĩa nào, là của ai, báo hại tôi phải mò mẫm, vạch từng cái bánh xèo ra dòm cho kỹ, xong ngồi thở hổn hển, nổi đóa tuyên bố: “Tôi thề, năm sau mới đổ lại bánh xèo”.
    Vậy mà cũng tới một năm rồi đó, là hôm nay, tôi xin dừng bài viết tại đây để đi pha bột bánh xèo nha quý vị!

—Kim Loan

(Edmonton, 9/2023)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bây giờ trời đã tối, nhiều người đi ngủ sớm. Bọn trẻ học bài dưới bóng ngọn đèn dầu ở ngoại ô, ngọn đèn đường gần bờ sông. Trước hàng rào kẽm gai, một người lính mang súng đi đi lại lại, một đôi tình nhân đi chơi về muộn. Ngọn đèn hỏa châu sáng bừng góc trời một lát rồi tắt. Người yêu quê hương đã đi ra khỏi mảnh đất của những hận thù dai dẳng mà vẫn muốn trở về. Người nông dân muốn cày lại thửa ruộng của mình. Người thợ sửa đồng hồ muốn ngồi lại cái ghế vải nhỏ thấp của mình sau tủ kiếng bày đồng hồ cũ và mới. Lò bánh mì chiếu sáng nhấp nhô bóng những đứa trẻ bán bánh mì đứng trước cửa sổ với bao tải lớn đựng bánh nóng mới ra lò. Con chim về ngủ muộn biến mất trong bụi cây chỗ anh đứng.
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.