Hôm nay,  

Mấy tuổi xa người

23/09/202307:42:00(Xem: 3899)
Truyện

vinhlong
Người đàn bà tóc búi cao, cổ thon dài tuy trang điểm nhẹ vẫn để lộ nét đẹp mặn mà một thời son trẻ. Sau vài cử chỉ khách sáo ban đầu, tôi dần nhận ra ánh mắt và nụ cười quen thuộc dù đã bốn mươi năm. Thời gian lướt nhanh thoáng chợt, đã bốn mươi năm, làm sao không thay đổi mặt người! Tôi cũng lúng túng, cố xóa đi khoảng không gian ngượng ngập ban đầu:
    – Yên khỏe không? Chỉ tới một mình?
    Câu hỏi chợt thành vô duyên, tan biến thật nhanh trong những chiếc bàn ghế trống của nhà hàng vào buổi lửng chiều. Trước mặt tôi là Thanh Yên, Nguyễn Thanh Yên, cô học trò cũ "liều mạng" của bốn mươi năm ngày nào. Bây giờ đã là một người đàn bà từng trải, có chút kiêu kỳ "đẹp lão" ở tuổi sáu mươi. Hai bàn tay đan chặt nhau trên mặt bàn, Yên vẫn yên lặng nhìn tôi trong ánh mắt thoáng mừng, thoáng tủi. Chúng tôi đã nói chuyện với nhau rất nhiều qua điện thoại, nhưng đây là lần đầu tiên gặp lại trên đất khách quê người.
    – Thầy vẫn vậy... chỉ có tóc là bạc đi nhiều... – Yên nói nhanh, nhìn xuống đôi bàn tay – Còn em đã thành bà lão, bốn chục năm rồi thầy!
    Giọng Yên thấp, nằng nặng. Tôi không muốn nói thêm câu gì, chỉ nhìn khuôn mặt của thời gian, của tôi của Yên. Chừng như chỉ cần một tiếng động, một câu nói vô tình sẽ làm vỡ tan mọi kiềm chế trong đôi mắt của người xưa.
    – Dạ, cô chú cần dùng gì?
    Tiếng người nhân viên phục vụ kéo tôi và Thanh Yên trở về với hiện tại.
    – Cho cô một cà phê sữa nóng, một sinh tố bơ, một dĩa gỏi cuốn và hai tô bún cá... À, cho cô xin thêm một tách sữa đặc!
    Cố dằn những xúc động tôi nhìn Yên mỉm cười, gật đầu cảm ơn. Chừng như tất cả vẫn vậy, vẫn cứ như hôm qua mà đã thấm mòn năm tháng. Đôi mắt người học trò cũ cũng giăng giăng lớp bụi đời. Tấm lòng người thầy cũ cũng tiêu hao bao hệ lụy. Ngôi trường xưa đã trôi xa theo ngôi trường đời nghiệt ngã. Trải qua hai cuộc hôn nhân, Thanh Yên đã tìm được bến đậu bình yên cho đời mình. Khóe mắt nụ cười thoáng vẻ bất cần cũng ánh lên nhiều niềm tin yêu, tự tại.   
    – Đêm hôm đó... chắc thầy oán hận em, oán hận gia đình em lắm, phải không thầy?
    Sau câu hỏi, mọi cố gắng của người học trò cũ không còn nữa. Tiếng khóc ấm ức, khuôn mặt cúi thấp như xé nát mọi xúc cảm, mọi ngõ ngách trong ký ức tôi. Tưởng đã lãng quên, đã chôn kín rồi một vết thương lành da khép mặt. Chợt đâu có tiếng người trong cuộc, khêu dậy ngọn đèn đêm của mịt mùng quá khứ. Nơi có kẻ bị ở lại và người buộc phải ra đi. Nơi mà người ở lại như bị phản bội, như bị lọc lừa niềm tin yêu một lần trao gởi. Cũng là lúc mà người ra đi như kẻ mất trí, đã không còn gì để sống với tháng năm đời người. Bi kịch của cuộc sống bao giờ cũng tàn nhẫn hơn sự tưởng tượng, hư cấu trong những cuốn tiểu thuyết vay mượn cảm xúc của người đọc. Người học trò cũ ngồi trước mặt tôi đã một lần chết. Để không ai trong chúng ta phải chết hai lần, nên phải chấp nhận, phải sống! Oán hận, nói không là dối nhưng nói có cũng đã vết da non mòn năm tháng. Tất cả đã theo người, đã một lần về với biển sâu dĩ vãng.
    Thời gian có ngừng đây bao giờ!
    Thương tiếc rồi sẽ làm buồn vu vơ!
    Nhiều lúc muốn quên để xóa mờ
    Nhưng mỗi lần nhìn đêm về tưởng nhớ
    Người đó ta đây, tình vẫn chia phôi
    Biết cuộc đời mình ra sao?
(1)
 
***
 
Bến đò chợ Giữa nằm ở ngã ba sông, phía sau lưng chợ Rạch Sỏi. Một bên qua chợ Giữa, một bên xuôi về Kinh Cụt–An Hòa. Ba giờ ba mươi sáng, trời tối đen như mực, không thấy rõ mặt người. Bến sông vắng lặng chỉ có tiếng vo ve của đàn muỗi đói cố bám lấy tôi để sống. Ngồi im bất động, tôi để mặc đàn muỗi chích no rồi tự bay đi. Đã trễ hơn ba mươi phút theo lời hẹn, sẽ có người đón tôi đưa đến điểm xuống ghe. Ba mươi phút dài nhất trong đời và bao trùm bóng đêm. Ba mươi phút để bao nhiêu hình ảnh hiện về như những đoạn phim ngắn đứt quãng.  Câu chuyện của hơn một năm qua thị phi, tai tiếng và để cuối cùng tưởng chừng như mọi duyên nợ an bài. Yên là học trò lớp 12 đầu tiên của tôi tốt nghiệp, rời trường. Cô học trò trưởng ban văn nghệ, có khuôn mặt đẹp sáng và luôn ngồi bàn cuối lớp vì chiều cao. Con gái chủ trại cưa khá giả cưng chiều, nhưng Yên có tính tự lập không dựa vào gia đình. Ty bưu điện tỉnh mở khóa tuyển chọn nhân viên, Thanh Yên thi và đậu. Suốt trong thời gian theo học ở Rạch Giá, mỗi cuối tuần Thanh Yên đều vào trường thăm và nấu nướng để hai thầy trò ăn chung, chuyện trò. Vừa ăn món bún cá, Yên vừa kể tôi nghe về khóa học bưu điện và ước vọng tương lai. Món bún cá quen thuộc đến nỗi tôi phải lên tiếng: "Em không còn món nào khác hơn sao?" "Em muốn thầy tập ăn một món cho quen. Để mai mốt thầy chỉ ghiền món bún cá này thôi". Cô học trò của tôi trả lời kiểu "liều mạng". Gia đình tỏ thái độ không tán thành, cấm đoán và cả việc đưa tôi ra hội đồng nhà trường và ty giáo dục. Tôi biết tình cảm của Yên và nhiều lần trốn tránh, khuyên răn cô học trò lãng mạn và liều mạng này. Rằng đây chỉ là những ngộ nhận ban đầu của tình yêu. Cuộc đời còn dài và rộng, tôi chỉ là người thầy giáo tầm thường, một ngày Yên sẽ gặp người khác tài năng hơn, thích hợp hơn để yêu thương. Đây chỉ là những cảm xúc nổi sôi của tuổi mới lớn. Rồi tất cả sẽ qua đi, sẽ chỉ là những kỷ niệm đẹp của tuổi học trò, sẽ chỉ là hành trang cho hạnh phúc mai sau. Nhưng mọi cố gắng của tôi và cấm đoán của gia đình không lay chuyển được Yên. Cuối cùng mẹ Yên "đầu hàng" con gái. Gia đình sắp xếp cho Yên và tôi cùng một chuyến ra đi. Đây là khoảng thời gian, Rạch Giá và Rạch Sỏi là trung tâm của những cuộc vượt biên lậu hay bán chính thức. Chuyến đi của gia đình Yên và tôi là chuyến đi bán chính thức, có tổ chức và mua chuộc thỏa thuận với chính quyền địa phương. Chắc chắn và khá an toàn. Tôi chỉ cần đến điểm hẹn đúng ba giờ sáng, có người đón và đưa ra ghe nơi sẽ gặp Yên cùng gia đình. Chỉ đơn giản như vậy. Tôi tin tuyệt đối vào Yên (và ngay cả đến bây giờ, bốn mươi năm sau).
    Bốn giờ sáng, đã có những chuyến ghe hàng sớm từ các huyện chở hàng vào chợ Rạch Sỏi. Âm thanh cuộc sống một ngày mới đang bắt đầu. Không ai đến để đón, tôi linh cảm điều gì bất thường đã xảy ra. Không biết bây giờ Yên đang ở đâu? Cầu mong mọi chuyện bình yên, không ai bị bắt bớ. Tôi tự an ủi hay trấn an chính mình? Chần chừ nữa, là công an sẽ đi tuần tra chợ và sẽ dễ dàng nhận ra thầy giáo trường cấp 3 của huyện, làm gì nơi bến đò sớm tinh sương? Không hiểu sao niềm thất vọng, nỗi buồn chán đánh mất tất cả sự sợ hãi trong tôi. Có vài giây phút tôi muốn bị bắt, bị đưa về đồn công an, "để được xem con tạo xoay vần" tới cửa khổ đau nào? Nhưng chừng như chẳng ai thèm để ý đến tôi, đến kẻ đứng bơ vơ trước cuộc sống chung quanh. Nỗi buồn trĩu nặng như người vừa lỡ tay làm vỡ chiếc bình thủy tinh trong sáng của niềm tin yêu. Tôi quay về trường và nhớ lại nụ hôn tham lam, tiếc nuối lần cuối của Yên khi chia tay. Tôi chợt ứa nước mắt và thương nhớ mùi hương chanh loáng thoáng trong đêm vừa sắp cạn.
    Vài ngày sau tôi biết mình là người bị bỏ lại. Những buồn bã rồi cũng qua đi, tôi phải tiếp tục sống và cầu mong cho chuyến đi của gia đình Yên đến được bến bờ mong ước. Hơn tháng sau tôi được tin Yên cùng gia đình đã đến trại tị nạn Mã Lai bình yên. Và chung với tin vui này, câu chuyện của cô học trò Thanh Yên đã làm tôi xúc động, ngậm ngùi rơi nước mắt. Chuyện kể lại ngày hôm đó, khi ra đến tàu ở hòn Tre (còn gọi là hòn Rùa) biết chắc không có tôi, Yên đã nhảy xuống biển (để cố quay lại vào bờ?) Cũng may nhiều người trên tàu kịp cứu và nàng đã an lành đến bờ tự do. Giọt nước mắt nhớ thương hòa với niềm vui tôi trộn lẫn. Làm sao oán trách được đây, khi Yên đã trả lại tất cả những gì mình có. Thương yêu và cả tính mạng. Tình yêu của Yên để lại trái tim tôi những vị tha, độ lượng trong cuộc sống vốn biển hẹp tay người. Cô học trò cũ của tôi nay đã lớn đã trưởng thành và đã dạy lại cho tôi ý nghĩa của một tình yêu trong sáng, có thật. Để mãi đến hôm nay tôi vẫn chưa tìm được lý do để oán hận Yên và gia đình cô học trò nhỏ!
 
***
 
Tôi kể và nói tất cả những cảm xúc của mình đêm hôm đó, của bốn mươi năm về trước. Cúi mặt bùi ngùi, tôi để yên bàn tay mình trong tay Yên mềm ấm. Câu chuyện đời người dù có thương tâm bao nhiêu cũng đã là quá khứ. Chúng ta ngậm ngùi, tiếc thương quá khứ nhưng không ai, không ai có thể sống đời cho quá khứ bao giờ! Mỗi người mỗi số phận, mỗi cuộc đời đang có để sống và để vươn lên, đi tới. Hãy nâng niu kỷ niệm như những hành trang quý giá nhất cho hiện tại và ngày mai.
    – Em cảm ơn thầy cho em biết những điều này. Em luôn mãi...
    – Thầy... thầy hiểu. Em không cần phải nói gì thêm nữa. – Tôi vội ngắt lời Thanh Yên, để mọi cảm xúc của không gian lắng dịu hơn.
    – Bây giờ nói thiệt với em một bí mật nghen.
    – Bí mật gì, thầy nói em nghe đi.
    – Món bún cá ở đây ăn dở quá! Thua tô bún cá của em ngày xưa xa lắc xa lơ.
    Yên bật cười thật tươi. Nụ cười vẫn còn đó dù thời gian đã mang theo nhiều nếp khắc của số phận, của đời người. Tôi rút nhẹ tay ra và ra dấu cho Yên đã đến lúc phải ra về. Trời đã xế chiều và Yên phải lái xe cả 2 tiếng trở về nơi mình ở. Có đến có đi, có hợp có tan. Nhưng bây giờ đã khác, thầy trò chúng tôi không còn ly tan nữa mà có nơi chốn phải quay về. Không còn những chia cắt xé lòng mà những yên bình để trở lại.
    – Mình đừng nói chia tay lần nữa nghen thầy. Em và thầy sẽ đi về cùng một lúc... Thầy phải hứa với em là không được quay lại chào tạm biệt. Thầy nhất định phải hứa nghen.   
    Thầy trò tôi không nói chia tay nhau. Tôi lặng lẽ đi về phía đậu xe và giữ lời hứa không quay nhìn lại. Nhưng khi vào trong xe, tôi đã nhìn thấy Yên vẫn còn đứng im nhìn theo về phía của tôi. Yên lần nữa lại gạt người thầy cũ. Người không nói chia tay nhưng đã đứng lại, nhốt cả không gian vào mắt. Tôi biết mình đang xúc động mạnh nhưng cũng không thể bước trở về dĩ vãng. Nếu không tất cả sẽ tệ hại, tất cả sẽ vỡ tan trong bao nông nổi tầm thường. Tôi cho xe ra khỏi bãi đậu, chạy nhanh ra lòng đường. Không dám nhìn lại, nhưng tôi biết phía sau Yên vẫn còn đứng bơ vơ nhìn chiếc xe của tôi biến mất vào lòng đời tất bật, biển dâu. Quá khứ và hiện tại đã giao hòa. Sẽ mãi không còn cuộc chia tay lần nữa của tôi, của Thanh Yên. Buổi chiều nhè nhẹ nghiêng như giọt nước mắt vô tình rơi mặn trên môi người thầy giáo cũ. Có tiếng ai hát vang vọng trong xa thẳm miền ký ức:

    Tình vui theo gió mây trôi

    Ý sầu mưa xuống đời
    Lệ rơi lấp mấy tuổi tôi

    Mấy tuổi xa người...  (2)

 

– Nguyễn Vĩnh Long

 

(1) Xin Trả Lại Thời Gian – Thanh Sơn

(2) Tình Khúc Thứ Nhất – Vũ Thành An

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.