Hôm nay,  

Mùa đã đi qua

30/09/202308:59:00(Xem: 3169)
Truyện

duythanh 6
Bản vẽ Duy Thanh [1931-2019].

Chú đánh điện về, anh đi đón em, chỉ vẻn vẹn thế, bố khắc biết ra ga Hàng Cỏ đợi. Trước khi đi bà dặn, em nó về, ta vui nhiều hơn, có những đau thương nhưng mẹ chỉ có hai con.
    Mẹ chỉ có hai con, bà nhắc đi nhắc lại câu đó nhiều lần trong bữa ăn, trước khi đi ngủ, trước khi mang quần áo vào nhà tắm, khi thấy bố lúi húi bên chiếc giường đóng cho chú, bà nán lại thêm bên ngoài nhà tắm một chút, như hàm ơn bố đã biết nghĩ cho em, và bà lại bảo, mẹ chỉ có hai đứa, gắng mà thương nhau, tang thương chưa đủ sao.
    “Vâng”, bố nói nhẹ lắm, tiếng nói lẫn với tiếng đục, tiếng bào. Và chiếc giường đó bà đặt lưng đầu tiên, khoan khoái, tựa như bao ngày bố làm cho bà vậy. Chú chuẩn bị về. Chú đi chừng hai mươi lăm năm, từ ngày rời gia đình theo người bác vào Nam. Âu cũng là cái phúc nhà mình, loạn lạc thế mà không mất người.
    Bà chỉ nhấn đi nhấn lại niềm vui không mất người, như muốn bảo, thế là vui rồi, con gắng vui lên. Bố có cần gắng vui không, tôi không biết, tôi thấy bố xoay vần ra đóng giường. Bố hì hụi xin gỗ thừa ở những nhà thuộc khu tập thể cũ đóng đóng lắp lắp thành chiếc giường. Gọi giường mới nhưng là gỗ cũ. Tôi thấy bà nhắm mắt mà hai mắt vẫn như đang cười híp lại, miệng nhoẻn ra hai bên, nghe chừng rất mãn nguyện. Và bà vui nhất khi chú về.
    Bố đi đón chú vào một chiều đông, bằng chiếc xe đạp cũ, tài sản duy nhất đáng tiền nên bố giữ gìn cẩn thận lắm. Khi tàu vào ga, bố nhận ra chú ngay, cũng nhờ tấm ảnh gửi về kèm bức thư, với lời lẽ rất chân thành. Em giờ như thế này, em chụp ảnh gửi anh trước, sợ anh em mình không nhận ra nhau; thêm lời rào đón trước sau của một đứa em xa quê, xa gia đình, đến như gần đứt tình máu thịt: em về làm khó thêm anh chị, nhưng em sẽ cố gắng.
    Hôm chú về, bố đóng thùng bộ cánh đẹp nhất, chiếc áo sơ mi trắng, chiếc quần ka ki nâu, đôi dép râu, đúng dáng cán bộ nhà nước những năm đầu giải phóng, bố phóng vút ra ga đón chú. Hai anh em thấy nhau mừng mừng, tủi tủi ngỡ ngàng. Sau giây phút bối rối và xúc động, chú ngồi sau xe bố về. Chú mặc áo màu sẫm, chiếc quần tối màu, tóc chưa kịp cắt còn loài thoài, bố hỏi. Sao không cắt tóc?  Em bận quá cũng quên. Sao lại quần áo này, không có cái nào trắng trắng hơn à? Trong đó người ta toàn mặc như này, em tưởng quê mình cũng thế. Ở trại có mệt không? Nhọc lắm anh ạ, có lúc em tưởng mình không chịu được. Thế à, bằng làm sao với con đường hành quân...
    Bố nói chưa hết câu, chiếc xe vướng vào ụ đá lổn nhổn bên đường nghiêng ngả, chực ngã. Chân bố chống mạnh làm trầy gót, chân chú mài xuống mặt bê tông làm bật máu. Ngọn gió bấc thổi dọc con phố dài, chạy dọc ra ngoài đồng vắng rồi xuyên đám lá me thưa bay thốc vào chỗ chú, tà áo mỏng màu nâu pha đen chẳng đủ ấm hay sao mà chú rùng mình mạnh một cái, quả đầu bù xù chưa kịp cắt cũng không ngăn được cái lạnh thổi dài hun hút, thổi vào câu chuyện của hai anh em về tóc tai, quần áo, con đường Trường Sơn và trại cải tạo, thổi dọc con sông vắng trên đường về nhà.
    Bà  thấy chú về ra ôm chặt, bà không kịp nhìn màu áo, mái tóc, với bà chỉ là chú, như thể cơ thể này ngày bé mẹ đã rửa đít cho, chiếc mũi này ngày bé mẹ đã ngậm và hút đi bao đờm rãi, bà khóc khi ôm chú, chú khóc khi ôm bà, chú chỉ nói, con xin lỗi mẹ.
    Chú về, nếp sinh hoạt trong nhà khác hẳn. Những ngày đầu, chú chỉ nằm trong phòng đọc mấy cuốn sách mang về từ trong Nam. Chú đọc đi đọc lại đến rách hết gáy, đến sờn hết mép, và những tờ giấy rơi ra lả tả, chú mang quấn lại, đóng cho nó một cái gáy, bố hỏi sách gì, chú bảo, mấy cuốn của Albert Camus mà.  Bố bảo, sách này ngoài Bắc cấm một thời, em không biết sao, chú bảo, nhưng bọn em trong đó thích lắm, bố bảo, thì thích nên mới phải cấm, thì cấm nên mới có ngày này. Chú im lặng hồi lâu không nói. Mấy hôm sau, không thấy cuốn đó đâu, thằng Tí ngây ngô hỏi bằng giọng nũng nịu, chú ơi, sách của chú đâu rồi, chú xoa đầu nó, chú cất rồi, khi nào cháu lớn, chú đọc cho nghe, nó cười ngô nghê, vâng.
    Không còn sách, chú kiếm những tờ báo giấy hàng ngày, nhưng chỉ chăm chăm vào  trang truyện, thơ và hình ảnh, có lần ngang qua chỗ chú ngồi, bố hỏi, tình hình Đảng ta đợt này ra sao? Em cũng không biết anh ạ. Tôi tưởng chú hôm nào cũng đọc báo? Nhưng em chỉ xem hình ảnh, đọc vài thứ linh tinh trong đó. Chú nói có phần ngượng ngập. Bố bảo, cái cần quan tâm nhất thì chú chẳng quan tâm. “Vâng”, chú vâng còn nhẹ hơn lần trước, bố nói xong rồi đến cơ quan. Và từ đó, chú cũng ít đụng đến tờ báo Đảng, chú lướt qua nó như không.
    Mẹ thấy trong nhà có người ăn mà thiếu người làm, mẹ mang về bao nhiêu là giấy làm hoa giả, bắt cả nhà vào cuộc, và chú là người hào hứng nhất. Chú làm hăng say quên mệt. Chú nghĩ ra đủ kiểu kết hợp màu sắc, đủ kiểu hoa, từ hồng đến hướng dương, cẩm chướng, đến thược dược, loại nào chú làm cũng hết sức tinh tế và bắt mắt, nên hàng hoa nhà tôi bán chạy nhất. Tết năm đó mẹ con tôi rủng rỉnh tiền tiêu. Mẹ nghe chừng thích lắm, khen chú mãi, nhà không có chú thì tết năm nay chết đói. Mẹ khen nhiều đến nỗi bố phát cáu, bảo, bà nghĩ gì kỳ, cán bộ cách mạng cốt cán mà lại để nhà chết đói sao, từ trước đến nay, mấy ai sống được bằng thứ ngụy tạo, cái bền vững thì không nghĩ đến.
    Không hiểu từ ngụy tạo bố dùng với nghĩa gì, hay là để chỉ thứ hoa giả phi nghệ thuật, nhưng rõ ràng mặt chú biến sắc, và những ngày sau đó, chú chỉ lặng lẽ làm, không nói gì, một thời gian sau nghề làm hoa giả cũng không được thịnh hành, mẹ chuyển sang việc khác.
    Bà tôi, đón con về được hết mùa đông năm ấy thì mất. Bà cố đợi chú về, trông thấy chú bà mới yên lòng. Khi nằm trên giường bệnh bà cầm tay bố tôi, đặt vào tay chú, bảo, các con là anh em một nhà, là gà một mẹ, các con phải yêu thương nhau, chia cắt nào cũng chung về một mối, các con phải yêu thương nhau. Bà nói xong thì trút hơi thở cuối cùng. Đám tang bà, chú khóc nhiều nhất, như thể, chú bơ vơ còn lại duy nhất ở cõi đời này vậy. Đám tang bà, một số người chỉ trỏ, người độc miệng bảo, thằng này theo Ngụy, sau giải phóng đi cải tạo mới về.
Bố nghe thấy, sầm mặt lại, chú lặng lẽ lui vào sau làm công việc hậu sự, chỉ khi đưa bà ra đồng, chú mới đội mũ rơm, chống gậy, đi giật lùi, vừa đi vừa khóc, nước mắt chan hòa, mặc tiếng  người thì thào. Từ đó chú lui vào trong nhiều hơn, họa hoằn lắm chú mới ra ngoài, chỉ khi có công việc cần kịp lắm.
    Mẹ  bảo, phải lấy vợ cho chú, chú lớn tuổi rồi, bố bảo, nó có chịu tìm hiểu đâu. Mẹ bảo, nó ngại thì mình phải tìm, bố bảo, ừ mẹ mày tìm đi. Mẹ hỏi đôn hỏi đáo thế nào mà hỏi ngay vào cô con gái nhà lão thành cách mạng, bố cô vốn là bạn thân của ông ngoại tôi. Bố biết chuyện bảo, nhà người ta có chịu không, mẹ bảo, chuyện quá khứ rồi, nhưng ai cho là quá khứ, còn cái thanh danh của tôi nữa chứ. “Cái thanh danh của tôi” bố nói sau cùng. Chú nghe thấy, chú nằm trong giường trở mình mạnh một cái. Hôm sau chú bảo, chị, em không lấy vợ đâu, em thích sống với chị và các cháu, nhà mình quây quần thế này là vui lắm, em chẳng mong muốn gì hơn. Mẹ bảo, không được, trai lớn lấy vợ, gái lớn gả chồng. Bố không nói gì, đi vào trong nằm, chú lẳng lặng về phòng mình đọc sách. Những ngày sau, chú đến thư viện nhiều hơn, chú nhờ bố làm cho cái thẻ đọc và mượn. Từ ngày đó cho đến ngày tôi lớn lên, cũng chỉ thấy chú đến thư viện rồi về.
    Chú đọc tất cả các loại sách, từ khoa học, văn học, đến đời sống, đến kinh tế và mỹ thuật, nên thằng Tí học lý, chú cũng kèm, tôi học văn, chú cũng dạy, học Hóa chú kiêm hết, chỉ có lịch sử là chú từ chối, chú bảo, chú lớn lên không được học sử, mà sử phải học mới biết, cháu bảo bố dạy đi. Bố cầm cuốn sách của thằng Tí đọc to: “Đế quốc Mỹ leo thang miền Bắc, bắn phá điên cuồng, giết hại bao dân lành, chính quyền bù nhìn Ngô Đình Diệm do chúng lập lên, phản bội nhân dân, đi ngược quyền lợi dân tộc, chúng lê máy chém khắp miền Nam, đâu đâu cũng đầu rơi máu chảy, tiếng than khóc của đồng bào dậy đất trời”.
    Thằng Tí ngô nghê hỏi, thằng Ngụy là thằng nào mà ác thế? Bố bảo, thằng Ngụy do Ngô Đình Diệm lập lên. Nó hỏi, xung quanh đấy có thằng ngụy nào không, chỉ con với. Bố chững lại sững sờ, tím mặt, rồi im bặt, bảo, không có con ạ, thôi học đi, bố còn chuẩn bị giấy tờ cho đại hội lần này.
    Bố vội vàng đi vào trong, bật đèn lên, chú cũng kịp bật đèn bàn của chú sáng quắc. Chú ngồi với cuốn sách mượn ở thư viện suốt tối hôm đó. Bóng chú hắt lên tường một mảng, chiếc đầu bù xù không chải in vào bức vách, lặng câm, in trên đó trong thế bất động phăng phắc, đến cả gà gáy, tôi liếc từ giường nằm ra, vẫn thấy chiếc bóng bất động trên tường.
    Rồi từ những cuốn sách chú mày mò tạo ra chiếc máy làm bún. Chú đi xin vật liệu người ta vất từ xưởng cơ khí gần đó, hì hụi làm trong sáu tháng, ra một cái máy làm bún, một người làm bằng công suất của hai mươi người. Bố lên chính quyền xin giấy phép cấp bằng sáng chế, để mở xưởng sản xuất hàng loạt. Đến nơi, người ta hỏi, ai làm, bố bảo em tôi làm. Bố là  nhà nước không được mở xưởng riêng. Người ta đòi chú lên kê khai lí lịch, chú khai thật. Người ta bảo, chúng tôi thật sự chia buồn cùng anh, sản phẩm anh làm ra có tốt bao nhiêu nhưng lý lịch như vậy, chúng tôi rất lấy làm tiếc.
    Chú mang máy về, mẹ một buổi dạy học, một buổi làm bún bán. Bún mẹ làm ra bao giờ cũng ngon và rẻ nhất khu phố, người đến mua nghìn nghịt; nghe phong thanh thế, ông tổ trưởng dân phố đến tận nhà, chị là cô giáo, đừng phá vỡ nghề truyền thống của bà con, đừng tước miếng cơm manh áo của bà con. Mẹ nghỉ làm bún từ bận đó, chiếc máy để yên ở xó nhà, thời gian sau nó sùi lên một đống rỉ sét, ngày ngày đi qua, chú nhìn nó thở dài, sau này có bà đồng nát qua ngõ, bố bán được mấy ngàn, cho hết chúng tôi mua kẹo gôm, kẹo vừng và kẹo dồi chó.
 
***
 
Mẹ bảo, cái mồm bố mày không có mắt, nói điều gì cũng động chạm, với chú phải biết ý. Từ đó, bố kiêng dè, ít nói hẳn, hoặc có nói thì dè chừng xem có động chạm gì đến ai không.
    Một hôm từ cơ quan về, bố bảo, cả nhà ăn mặc thật đẹp, hôm nay tôi đãi. Có chuyện gì vậy anh? Thì chú cứ chọn bộ đẹp nhất đi.
    Thằng Tí như thể sắp được dự tiệc lớn, nó lôi ra cả đống áo quần, chọn cái mới và đẹp nhất, tôi chọn được bộ màu hồng rực, còn mẹ, chọn chiếc áo màu cam, chiếc quần màu xanh, và buộc tóc bằng chiếc nơ màu đỏ, như thể bố chuẩn bị đãi cả nhà tiệc lớn, như những lần bố được thăng cấp, hoặc cơ quan mở tiệc to đãi khách quý.
    Chú cũng chọn cho mình chiếc áo trắng, quần đen. Hôm nay chú sơ vin đẹp nhất, chú còn xí phần đèo tôi, chú bảo, hai chú cháu mình rực rỡ nhất phố, T xinh thế, các anh phải nhìn chú gừ gừ, bởi chú giữ cháu gái kỹ thế, bố đứa nào dám nhảy vào tán.
    Tôi lườm chú, mà thấy bừng sáng lên. Cả nhà lâu lắm mới được một cuộc vui thật sự, sau bao tháng ngày làm hùng hục, thằng Tí thắc mắc, lâu rồi không được đi ăn kem, tôi thì, lâu không được ra Thủ Lệ ngắm thú, mẹ bảo, cả ngày làm tối mắt mũi cũng mệt, bố bảo, đợt này vất vả, tôi cho cả nhà đi chơi, xong đãi cả nhà những món ngon ngoài phố.
    Nhưng nhân dịp gì mới được chứ?
    Thế mẹ con mày không biết à?
    Tết Thống Nhất chứ gì, mừng giải phóng miền Nam tưng bừng thế mà.
    Tôi nhớ ra hét toáng lên, thằng Tí cũng vỗ tay rào rào, mẹ cũng vui cười rạng rỡ, bố thì híp cả mắt lại, chỉ chú không, chú thoáng quay đi giấu một nét buồn sau áo. Chú vờ cúi xuống sửa xe, chiếc xe xích bẩn ngoen dấy áo, chú lấy cớ áo bẩn không đi cùng cả nhà được. Sau phút hứng khởi vô duyên, bố cũng thấy mình có lỗi, mẹ thì càng có lỗi hơn, mẹ chỉ bảo, ừ chú bẩn áo không đi được thì ở nhà đọc sách, mấy bố con nó sẽ mua đồ ăn về cho chú.
 
***
 
Đất nhà tôi rộng, mẹ ngăn đôi, một nửa cho chú bán cà phê. Chú vừa pha cà phê, vừa làm luôn công việc phục vụ những người bạn của bố. Bạn của bố đa phần là lính. Vào những dịp vui, họ kéo đến ào ào,  lấy quán chú làm trung tâm ăn uống, hát hò, và nhảy múa, họ treo khẩu hiệu tưng bừng. Rồi họ nói toàn kỷ niệm xưa, những lần giáp lá cà với Mỹ, những lần tiêu diệt cả tiểu đội thám báo, biệt kích Ngụy. Có người vỗ vai chú hỏi, thằng em, năm đó chiến đấu ở chiến trường nào, bố thấy vậy vội gạt đi, nó đau ốm nên được miễn đi bộ đội.
    Vậy à, thế thì sao biết đánh đấm thế nào. Cả bọn cười vang, bố cũng cười méo cả mặt, chú lặng lẽ quay vào trong, ra gốc si bên hồ nhỏ ngồi. Chú thả từng nắm cám xuống, đàn cá nhoi lên đớp mồi, con đớp được con không, chúng quay ra rúc rỉa nhau, tranh giành, làm mặt hồ gợn lên từng đợt sóng, cho đến tối, bố ra gọi về bảo:
    Kệ họ đi, họ không hiểu thì anh hiểu.
    Đúng thế, từ lâu bố đã tỏ ra hiểu chú. Chuyện này chắc nhờ mẹ. Hoặc tình anh em lâu ngày mới tìm lại được trong quá trình chung sống. Từ ngày về hưu, bố càng không nhắc gì chuyện cũ, tránh cao nhất để chú khỏi buồn.
    Nhà có một chiếc ti vi đặt ở phòng khách, cứ đến chương trình ca nhạc là rộn cả lên, bố gọi, mẹ mày vào mà xem hay lắm. Bố nằm trên ghế, mắt nhắm nghiền lại theo lời bài hát: Có một bài ca không bao giờ quên, là lời đất nước tôi chẳng phút bình yên…
    Mẹ bảo, sao mà hát mãi thế!
    Bà này hay nhỉ!
    Mẹ nhìn xa vắng ra ngoài, gió trên cành ngọc lan thổi vào từng luồng mang theo mùi hương đêm lan tỏa, nghe như trong đó, luồng âm khí người xưa cuộn về theo hương hoa, mẹ nhìn lên bàn thờ, bà cười với mẹ, nụ cười vương vấn khói hương của que hương thắp lúc chập tối còn đang cháy dở. Chú về bất chợt, nghe câu chuyện của bố mẹ, chú chỉ hỏi, chị ăn cơm chưa, tôi đã ăn, sao hôm nay chú về đột xuất, quán vắng khách sao?
    Em chạy về lấy cuốn sách rồi lại ra ngay.
    Bố vẫn mải mê theo giai điệu bài hát mà không biết chú về. Bố nằm dài trên ghế, hai tay để trên ngực, miệng rên xiết theo lời bài hát, thi thoảng gồng người lên, như ca sĩ trong giai đoạn phiêu nhất của ca từ.
    Chú lấy sách  xong rồi đi, chú có chào bố, nhưng tiếng chào nhỏ quá, bố không nghe thấy. Mẹ nhìn bố rồi nhìn chú lắc đầu, mẹ cũng lẳng lặng đi vào buồng, chỉ còn bố bên chàng ca sĩ, cùng đám múa phụ họa, đang mặc cả quần áo Giải phóng và Ngụy quân. Những Ngụy quân chao đảo, ngả nghiêng rồi đổ nhào. Chú bước xiêu vẹo qua hàng lưỡi hổ bà trồng lúc trước, qua những chậu trích châm bố đặt sau này, hương thơm buổi đêm đưa lại nồng nồng, nhưng dường như chú không cảm nhận được…
    Tôi lấy chồng, sinh con, con tôi đã bốn tuổi, chú vẫn bán quán cà phê ngày trước, kiêm luôn công việc trông thằng Tũn. Thằng bé nghịch ngợm suốt ngày vuốt râu ông trẻ, hỏi đủ điều. Chú ngồi giảng giải kỹ lắm, và lấy đó làm niềm vui, như ngày chú giảng giải đủ điều cho mẹ nó biết vậy. Có hôm về, nó đọc: Anh em như thể chân tay, rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần, và hỏi bằng giọng ngô nghê, chú hăng say cắt nghĩa, nó bảo, như con và chị Hạnh tồ hả ông, chú bảo ừ, đoàn kết là gì, đoàn kết là không cãi lộn, đánh nhau. Nó bảo, như ông với ông ngoại con hả chú bảo, phải. Đúng lúc đó người bạn già của bố đến chơi, nói chuyện, đợt này, có dự án lớn chuẩn bị đầu tư về nước, rất cần người phiên dịch tiếng Ba Lan. Đưa dự án về là một tù Côn Đảo xưa, cũng là bạn thân của bác. Bố nghĩ một hồi rồi vỗ tay đánh đét, trời, chú N nhà tôi chứ ai, nói tiếng Ba Lan như gió. Người bạn hồ hởi, thật ư, thật ư, còn gì bằng. Sau phút giây sung sướng, bác hơi chững lại một nhịp, như đang ăn cơm ngon mà nhai phải miếng gân bò dai quá. Bác bảo, ừ, có gì tôi bàn bạc với anh sau.
    Tiễn bác về, bố buồn hẳn, bố hiểu ngay sự tình cái niềm đang vui mà bỗng hóa buồn đấy, chú thì càng hiểu hơn, chú bảo, được hay không cũng không quan trọng. Em vẫn bán cà phê, anh vẫn phụ chị, thằng Tũn vẫn đi học, cứ bình lặng có phải hơn không.
    Tôi giảng dạy môn Ngữ Văn trong trường đại học, kiêm luôn mảng công tác xã hội. Chuẩn bị, có cuộc hội thảo, hòa hợp dân tộc sau chiến tranh. Tôi cần ý kiến của chú, người trong cuộc cho đề tài của tôi. Chú và tôi có buổi trao đổi thật cởi mở, công khai và rõ ràng về vấn đề này. Chưa bao giờ tôi thấy chú vui thế. Chú nói chuyện sôi nổi, hào hứng, nồng nhiệt, như thể mình góp được một phần nhỏ vào việc lớn lao trọng đại của dân tộc, chứ không riêng gì giúp cô cháu gái bé nhỏ nữa.
    Mẹ hỏi, chú cháu có chuyện gì mà phởn vậy, tôi chỉ cười, chú cười lớn hơn, thằng Tũn ôm lấy cổ ông mà nghêu ngao, anh em như thể chân tay, chú phát nhẹ vào mông nó, cha bố anh, nó đùa lại, cha bố ông, cả nhà cười vang. Chú nhiệt tình giúp tôi. Đầu chú cúi thấp, chú đọc không sót một từ, vừa đọc vừa say sưa góp ý, mà không để ý truyền hình đang chiếu bộ phim đến đoạn, tên lính mặc áo sọc, đang giơ chiếc đầu lâu của Việt Cộng lên.
    Bố vỗ đùi đánh đét, mẹ cha thằng Ngụy, thằng Tũn phụ họa: Mẹ cha thằng Ngụy. Chú nghe thấy ngẩng lên, đôi mắt đục mênh mang mênh mang như chứa cả trời chiều mùa thu xám sẫm, như có một dòng ngầu đỏ của nước lũ đi qua, tôi đọc thấy mênh mang những vực thẳm, những hầm chông, những hố, những lụt lội, tôi thấy ráng trời đỏ tía phía Tây, những mây mờ và cuộn rồng vần vũ, thấy bà ngồi lẫn với khói hương nghi ngút mà dặn với theo bố tôi, mẹ chỉ có hai con, chiến tranh nào rồi cùng qua, chia cắt nào cũng chung về một mối, anh em phải đoàn kết, yêu thương nhau.
    Rồi bóng bà lẫn với bóng chiều, bay vút về phái chân trời xa, và chú cũng đuổi theo, chú cứ đuổi theo hụt hơi, chới với, mẹ đợi con với, mẹ chờ con với, mẹ ơi…
    Tôi tỉnh dậy, thấy gối mình ướt đẫm, thì ra tôi mơ, giấc mơ sợ quá, chồng tôi bảo, tại em hay nghĩ, tôi bảo, hình như có linh cảm gì trong em, chồng tôi bảo, anh ít tin vào linh cảm cùng những giấc mơ khó bề lý giải, chỉ là do ám ảnh ban ngày vận vào. Chồng tôi vốn là bác sĩ ngoại khoa.
    Nhưng ba ngày sau thì chú chết.
    Đám tang chú chỉ có vài người bạn sách, chục người trong khu phố, và hai mươi người vốn là khách ruột của quán cà phê và ông chủ. Đám tang chú, bố đứng bên bàn thờ, miệng lấp dấp, lấp dấp, nói gì đó chẳng lên lời: mẹ, mẹ, rồi lại mẹ; bố nói mãi không thành câu, lại cúi xuống, lại ngẩng lên, như muốn báo cáo, lại như muốn chuộc lỗi. Tôi thấy bà tôi cười trên ban thờ vướng vít khói hương. Tôi chưa bao giờ thấy bà cau mặt. Từ ngày bé đến lớn lên, đến lúc chỉ còn nhìn thấy bà trên ảnh thờ, tôi cũng chỉ thấy bà cười. Bà cười khi nhìn bố tôi, nhìn chú, khi nắm tay bố tôi cùng chú, bà chỉ cười. Lòng người mẹ bao dung lắm.
    Bố cứ đứng tần ngần ở đó một lúc lâu, như muốn nói gì mà không nói được, lại thôi, rồi cuối cùng tôi cũng nghe thấy: con xin lỗi, con xin lỗi, cùng cái chắp tay lia lịa lạy bà, như tạ lỗi, như muốn bảo, mẹ đánh con thì đánh, con không làm được lời mẹ dặn.
    Lòng người mẹ bao giờ cũng bao dung như thế.

 

Bảo Thương

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chị Hai đã uống một ly nước đầy và đi làm việc tiếp. Đoan vào lại chỗ của mình. Như một phản xạ, Đoan lại cho tay vào túi, làm như tìm xem trong đó có sót lại một viên kẹo chăng. Mơ hồ, Đoan nhớ ngày xưa Đoan hay ví một hành động “vớt vát” nào đó như là “tìm con cá sót lại trong chiếc giỏ của cô Tấm.” Mắt Đoan cay cay. Bỗng như thấy mình đang đi vào lại đường cây còng. Mùa mưa, những chiếc lá trên cao đọng nước, rũ nhè nhẹ xuống tóc Đoan, nghe mát. Hai túi áo blouse lúc nào cũng đầy kẹo. Đoan vào trại bệnh. Những dãy giường đầy người. Thay băng xong cho ai, Đoan tặng người ấy một viên kẹo
Ở đây tôi chỉ muốn đưa một vài nét chính của các môn Khí công mà tôi đã tập qua, để người đọc theo đó sẽ chọn được một môn pháp thích hợp cho mình tập. Chả thế người xưa thường hay nói “Tùy bịnh chọn công“, tùy theo thể chất và sức khoẻ mà chọn cách tập Khí công.
Ngày tựu trường năm nay, trường Việt Ngữ Suối Mở Offenbach đón tiếp 14 học trò mới với tuổi tác, trình độ tiếng Đức, tiếng Việt chênh lệch khá nhiều. Tạm thời, cô giáo gọi lớp này là Lớp Mới. Giờ học đầu tiên, cô giáo chưa thực sự “dạy” chữ, chỉ “dỗ” các học trò. Hy vọng học trò sẽ thấy học tiếng Việt không khó lắm và tìm thấy niềm vui khi đến trường Việt Ngữ mỗi thứ Bảy. Chờ cho học trò tìm chỗ ngồi xong, cô giáo giới thiệu mình, và tập cho học trò chào hỏi. Nghe các em đồng thanh: “Con chào cô giáo”, lòng cô giáo rộn lên niềm vui, liên tưởng câu châm ngôn “tiên học lễ, hậu học văn” mình được học ngày xưa.
Cô vẫn nhìn thẳng phía trước, không nhìn ngang nhìn ngửa. Anh liếc nhìn cái túi xách giữa hai đùi cô, thấy cộm lên, nghĩ rằng trong ấy có một khẩu súng ngắn, đã lên đạn, lát nữa sẽ kề vào thái dương của anh. Anh nín thở.
Tháng tư 1976, sau một mùa đông ở North Dakota, vừa có bằng lái xe, tôi bỏ việc, bỏ lại một vùng quá bình an, quá tử tế, nhưng cũng quá cô quạnh này, đi thẳng về hướng tây...
“Anh nhớ đến dự lễ trao đẳng cấp Đại Bàng cho thằng con em nha! Để mừng cho em và cháu…” Tôi nhận được điện thoại như vậy từ C., một người bạn trẻ có con trai là hướng đạo sinh thuộc Liên Đoàn Trường Sơn, được nhận danh hiệu Đại Bàng vào ngày 16/08/2025. Đã lâu rồi, kể từ khi hai thằng con ngưng sinh hoạt hướng đạo để đi học đi làm, tôi không có dịp trở về thăm lại liên đoàn. Công việc thì nhiều, thời gian thì ít. Nhưng lần này thì không từ chối được rồi!
Đó là tháng 6-1989, lần đầu đến New York và vào một bảo tàng viện nổi tiếng ở đây, tôi tình cờ, tới chỗ treo một bức tranh trừu tượng khổng lồ, cao khoảng 2 mét, ngang khoảng 6 mét. Tôi kinh ngạc với sự giàu có ở đây, bảo tàng viện này dành riêng ra một căn phòng lớn, đơn giản, sang trọng, chỉ để trưng bày một bức tranh đó...
Tôi bị bắt tại huyện Tân Hiệp chiều ngày hai mươi, giáp Tết. Lý do, mang theo hàng không giấy phép. Thế là tiêu tan hết vốn lẫn lời mà tôi chắt chiu, dành dụm gần cả năm nay. Nhớ đến mẹ và gia đình trong những ngày Tết sắp tới, tôi vừa buồn vừa tức đến bật khóc. Xui rủi, biết trách ai. Tiễn, anh phụ lơ, đã cẩn thận cất dấu hàng cho tôi, vã lại anh cũng quá quen biết với đám công an trạm kiểm soát. Không ngờ chuyến nầy bọn công an tỉnh xuống giải thể đám địa phương, nên tôi bị “hốt ổ” chung cả đám. Đây không phải là lần đầu bị bắt, nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi chuyến vốn lớn như vầy. Năm ký bột ngọt, năm ký bột giặt, hơn chục ống thuốc cầm máu và trụ sinh hàng ngoại. Bột ngọt, bột giặt không nói gì, nhưng hai thứ sau hiếm như vàng mà giới “chạy hàng” chúng tôi gọi là “vàng nước”. Nên thay vì đưa về khu tạm giam huyện chờ lập biên bản, hồ sơ xét xử tôi nghe bọn công an thì thầm, bàn tán giải thẳng về khám lớn tỉnh Rạch Giá.
Quỳnh Lâm báo tin sẽ đến Đức trong tuần lễ đầu tháng 10. Nisha vội vàng thu xếp “sự vụ lệnh“ để công du sang Đức. Nisha lo đi chợ sắm sửa đầy mấy tủ lạnh, tủ đá, để mấy cha con sống còn trong thời gian nữ tướng đi xa. Chúng tôi hồi hộp quá, ngày nào cũng thư từ, nhắn nhủ, dặn dò đủ điều tẳn mà, tẳn mẳn. Điện thư qua, về hoa cả mắt. Thư nào chúng tôi cũng nhắc nhở nhau giữ gìn sức khoẻ, vì đứa nào cũng “lão” rồi. Khi gặp nhau, tụi tôi nhất thiết phải đầy đủ tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện. Có hôm, đến trưa, chưa nghe tăm tiếng, tôi sốt ruột, xuất khẩu làm thơ... bút tre:
Sống ở đây an toàn và bình an gần như một trăm phần trăm trong hiện tại và tương lai, nhưng không thể bình thản hóa quá khứ. Cuộc chiến khốc liệt giữa thiên thần và ma quỉ luôn ám ảnh ông. Có những điều gì thao thức, âm thầm nghi hoặc, nhoi nhúc sâu thẳm trong ông. Lòng tin vào ông Gót có phần nào lung lay. Đông cảm thấy có lỗi khi nghi ngờ bố, người đã giúp đỡ, bảo vệ ông và Vá. Nhưng nghi ngờ là một thứ gì không thể điều khiển, không thể đổi đi, không thể nhốt lại. Nó vẫn đến, mỗi lần đến nó vạch rõ hơn, nhưng vẫn mù sương như đèn xe quét qua rồi trả lại sương mù.
Trâm gật đầu nhè nhẹ. Đoan nghĩ thật nhanh đến một cảnh diễn ra mỗi đầu tháng trong sân trường. Nơi đó, các sinh viên xúm xít cân gạo và các loại “nhu yếu phẩm”, mang phần của mình về nhà. Rồi thì trong khu phố, cảnh những người dân xếp hàng “mua gạo theo sổ” cũng diễn ra mỗi ngày. Nói “gạo” là nói chung thôi, thật ra trong đó phần “độn” chiếm đa số. Phần “độn” có thể là bo bo, có thể là bột mì, cũng có thể là khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô. Nồi cơm nấu từ gạo và một thứ khác được gọi là nồi “cơm độn.” Mỗi ngày hai bữa cơm độn. Bo bo thì quá cứng vì vỏ ngoài chưa tróc, nấu trước cho mềm rồi cho gạo vào nấu tiếp, trở thành một “bản song ca” chói tai. Khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô thường bị sượng, ghế vào cơm rất khó ăn. Chỉ có bột mì tương đối dễ ăn hơn, vì người nấu có thể chế biến thành bánh mì, nui hay mì sợi
Mùa đông, tuyết đóng dầy trên mái nhà. Ấy là lúc bà ngoại cũng lo là lũ chim - những con chim của ngoại - sẽ chết cóng. Nhưng bà không biết làm gì để cứu chúng nó. Ngoại đi tới đi lui từ phòng khách qua nhà bếp. Thở dài. Rên rỉ. Rồi lẩm bẩm, “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.” Bà ngoại tội nghiệp những con chim chết lạnh. Sinh nhật ngoại, chúng tôi chung tiền mua quà. Một con sáo trong chiếc lồng tuyệt đẹp. Bà ngoại cưng nó hơn cưng chị em tôi. Cho nó ăn, ngắm nghía bộ lông đầy màu sắc của nó. Chăm chú lắng nghe tiếng hót véo von lúc chớm nắng bình minh và buổi hoàng hôn nắng nhạt. Rồi một buổi sáng nọ tiếng chim thôi líu lo. Bà ngoại chạy ra phòng khách. Hấp tấp tuột cả đôi guốc mộc. Con chim sáo nằm cứng sát vách lồng. Hai chân duỗi thẳng. Cổ ngoặt sang một bên. Con chim của ngoại đã chết. Bà ngoại buồn thiu cả tuần lễ. Bố mẹ tôi bàn tính mua con chim khác. Bà gạt ngang.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.