Hôm nay,  

Đi dự tiệc cưới

10/18/202317:35:00(View: 2891)
Truyện

IMG_7382

Hồi đầu tháng, ông xã tôi nhắc:
    – Cuối tháng này tụi mình đi đám cưới nhé em.
    – Em biết rồi, đám cưới cậu pharmacist trong tiệm anh chớ gì, mà em quên hỏi, cậu ấy người Việt hay Tây?
    – Cậu ấy là dân gốc Afghanistan, lấy vợ là người da trắng, cũng là nhân viên trong tiệm, nói chung đây là đám cưới mà cả cô dâu chú rể đều là “lính” của anh, cho nên vợ chồng mình cố gắng đi chung vui với họ . Mà em hỏi chi vậy?
    – À, nếu là đám cưới người Việt thì mình sẽ... thong thả chút xíu.
    – Đây là đám cưới Tây, hơn nữa anh là boss của họ, mình không những đến đúng giờ mà  nên đi sớm để bày tỏ sự quan tâm, trân trọng ngày vui của hai đứa.
    – Em biết rồi, anh khỏi phải nhắc.
    Thật ra, anh ấy nhắc không thừa và không oan tí nào, mà cũng đâu phải lỗi tại tôi, chỉ tại các tiệc cưới Người Việt Nam luôn luôn trễ giờ hơn cả tiếng so với giờ mời trên thiệp, đã từng làm bụng tôi đói cồn cào, choáng váng mặt mũi xanh lè như tàu lá chuối. Từ đó, hễ đi ăn cưới dân Việt là tôi ăn trước chút snack, và đến trễ khoảng mười lăm phút hoặc nửa tiếng. Chồng bảo tôi qua xứ này rồi mà chưa học hỏi thói quen đúng giờ của người ta, nhưng khổ quá, dù tôi đã vài lần đến đúng giờ thì tình trạng là “vũ như cẩn”, ngồi ngáp dài ngáp ngắn mỏi cả lưng, nên tôi chọn kiểu “lưng chừng”, đi trễ chút xíu nhưng vẫn trong nhóm đến sớm, đợi chờ những người đến sau.
    Thiệp mời cocktail 6 giờ và tiệc chính thức 7 giờ, vì chồng tôi còn bận làm việc nên chúng tôi chọn giờ vào tiệc, có mặt lúc 6 giờ 45 phút, khi mọi người đã xong phần cocktail đang ngồi yên vị nhỏ to chuyện trò trong tiếng nhạc dịu êm chờ giờ khai mạc. Chúng tôi chào hỏi vài người xung quanh, quan sát không gian nơi tổ chức tiệc, được một lúc thì người MC bước lên podium thông báo, giờ khắc quan trọng đã đến, đôi tân lang sẽ xuất trong giây lát. Mọi người cùng im lặng, hướng ra ngoài cửa, tôi nhìn đồng hồ, đúng 7 giờ, hay nói chính xác hơn là còn 3 phút nữa mới đúng 7 giờ!
    Tôi nhớ có lần đi dự một đám cưới người Việt trong cộng đồng, vợ chồng tôi như thường lệ rời nhà đúng giờ... mời trên thiệp (nghĩa là sẽ đến nơi trễ mười lăm, hai mươi phút). Ra đường chồng tôi mới nhớ xe gần hết xăng, tôi bảo:
    – Còn sớm mà anh, cứ từ từ đi đổ xăng cho đầy.
    Đổ xong xuôi, xe chạy bon bon hướng ra high way về dưới phố, tôi nhẩn nha nghe nhạc và soi gương trên xe, bỗng phát hiện ra tôi đã quên tô son môi, vì trước đó bận rộn thử đi thử lại mấy cái áo đầm để chọn một cái ưng ý, rồi chồng tôi thúc giục sợ trễ nên tôi sơ sót trong lúc trang điểm chăng? Bình thường trong bóp tôi luôn có cây son, và chai nước hoa nhỏ, vậy mà bữa đó trời xui đất khiến tôi đổi chiếc bóp khác, rồi lại quên bỏ son vào, báo hại tôi phải năn nỉ chồng:
    – Anh ơi, làm ơn quay về nhà, em quên cây son rồi.
    Chồng tôi cằn nhằn:
    – Mình đã trễ 15 phút rồi đấy.
    – Ôi, chạy về nhà thì mình trễ nửa tiếng, cũng vẫn là ... sớm, anh tin em đi.
    – Anh biết, nhưng thà mình đến đó ngồi chờ, còn hơn là vác cái mặt đến quá trễ, anh không làm được.
    – Thì dù sao cũng chỉ trễ... nửa tiếng thôi mà, đôi môi em tái nhợt thế này thà em chết còn sướng hơn đó.
    Chồng đành phải đưa tôi về, tôi chạy lên phòng tô son, cẩn thận bỏ cây son vào bóp, rồi vội vàng ra xe, trực chỉ đến tiệc cưới. Nhưng thật không ngờ, “họa vô đơn chí” là có thật, nghe nói ngay trên giữa highway vừa có một tai nạn, hai xe tông ngược chiều vào nhau, đầu xe bể tan tành, xe cứu hỏa, ambulance và xe cảnh sát nhốn nháo chặn đường chỉ còn 1 lane cho mỗi bên. Chúng tôi khổ sở nhích từng đoạn đường, cuối cùng đến nơi parking trễ 1 tiếng 15 phút. Hai vợ chồng hối hả đi vào nhà hàng tiệc cưới, chẳng dám nhìn ai vì xấu hổ, nhưng ô kìa, tiệc vẫn chưa bắt đầu, người ta vẫn đứng ngồi lai rai cụng bia, tán dóc. Chị Bảy, được nhiều người Việt ở thành phố tặng cho danh hiệu “chuyên gia đi trễ” của cộng đồng, luôn luôn có mặt sau cùng ở các buổi tiệc, thấy tôi liền chạy đến chào rồi mỉm cười:
    – Chị tưởng chị là “nữ hoàng đến muộn” mà hôm nay vẫn... sớm hơn em.
    Tôi lí nhí:
    – Bị kẹt xe, tai nạn trên highway chị ơi.
    – Vậy à, nhưng em yên tâm, em vẫn còn sớm hơn... nhơn vật chính là cô dâu.
    – Có chuyện gì hở chị?
    Chị Bảy lắc đầu, thở dài:
    – Thiệt là xui xẻo tận mạng, hồi trưa đi chụp hình cưới ngoài park , cô dâu vướng víu đuôi áo soa-rê và giày cao gót, bị té dập mặt xuống bãi đá nhọn, máu me lênh láng, đưa đi cấp cứu, mới được xuất viện cách đây một giờ, đang đi tiệm make up và làm tóc lại toàn bộ.
    Dù chúng tôi thoát nạn vươt qua “danh hiệu nữ hoàng” đi trễ của chị Bảy, ông xã nhất quyết từ nay phải luôn đến đúng giờ, dù là tiệc của người Việt, người da trắng da đỏ hay da màu. Tiếng nhạc xập xình đưa tôi về với tiệc cưới hiện tại . Ôi, đám cưới Tây có khác, ngoài việc giờ giấc y boong, là những thủ tục giới thiệu cha mẹ hai bên rất gọn gàng (không dài dòng, diễn văn lê thê), và tuyệt nhiên không có tiếng cụng ly ồn ào “dzô dzô chăm phần chăm”, nhất là khi cô dâu chú rể cùng đại diện hai họ lên phát biểu, cả gian phòng chăm chú lắng nghe, cùng những tràng vỗ tay không dứt mừng cho đôi uyên ương.
    Đến lúc xếp hàng đi lấy thức ăn kiểu buffet, ông xã tôi dừng lại nói chuyện với ba má chú rể, họ mặc trang phục Afghanistan trang trọng, vui vẻ đưa dĩa cho từng vị khách, nhưng lại đượm buồn khi nói về sự thiếu vắng một số thân nhân còn ở lại Afghanistan kể từ ngày quân Taliban tiến về “giải phóng Kabul” cách đây hơn hai năm.
    Làm sao tôi quên được ngày đó, vì cũng là ngày funeral của Ba tôi. Ngày 16 tháng 8 năm 2021 khi đại gia đình chúng tôi trở về nhà ăn tối sau khi an táng Ba yên nghỉ tại nghĩa trang Arlington, Texas, vừa xem tin tức nóng hổi những hình ảnh quân Taliban tràn ngập thủ đô Kabul trong khi nhiều người dân hoảng hốt “chạy giặc”, cố bám theo chiếc máy bay sắp cất cánh đưa những người Afghan tỵ nạn rời khỏi quê hương.
    Có khác gì sư hỗn loạn ngày 30 tháng 4 năm xưa khi Sài Gòn bị “giải phóng”? Những khuôn mặt căng thẳng, lo sợ, bằng cả mạng sống muốn chạy khỏi quân khát máu đang thâu tóm quê hương. Rồi hình ảnh đám quân Taliban ùa vào dinh Tổng Thống Ashraf Ghani (lúc ấy đã bay ra khỏi nước, hiện đang tỵ nạn ở Ả Rập), chúng sờ mó chiêm ngắm các vật dụng sang trọng trong dinh cũng như những máy móc hiện đại tối tân với những cặp mắt ngưỡng mộ đầy kinh ngạc (tội nghiệp chúng bao năm ở rừng rú hang động, nào được tiếp xúc với văn minh loài người). Cũng y chang như những câu chuyện chúng ta thường nghe dân Sài Gòn truyền tai nhau về sự ngây ngô (mà khoái nổ) của các anh cán ngố Cộng Sản Việt Nam.
    Lúc ấy, tôi đang học tiểu học trường Đồng Tháp, trước đây là khu quân đội của chính quyền VNCH, xung quanh trường học là những khu cư xá sỹ quan, các ngôi nhà lầu đúc một tầng, có lan can xinh xắn trước nhà, và mảnh sân nhỏ trồng cây tỏa bóng mát rất đẹp. Sau 1975, các gia đình cán ngố dọn vào ở. Chèn đéc ơi, sân trước chúng rào lại, chặt bỏ những cây điệp, cây trứng cá, thay vào đó là trồng rau muống, nuôi lợn “cải thiện đời sống”. Chưa hết đâu nhé, balcony thơ mộng với những chậu hoa leo cũng bị chúng vứt bỏ, rồi giăng dây kẽm phơi quần áo màu xanh... “bộ đội”, đôi khi còn treo cả nón cối và dép râu ở ngoài hiên nữa cơ, cứ như sợ người ta không nhận ra “bố mày là ai” hay sao á!
    (Ủa, hình như tôi đang đi... lạc đề!? Thôi dừng lại ở đây, kẻo viết nữa thì bài này sẽ bị/được xếp qua bài chủ đề tháng Tư Đen năm tới)
    Nhạc lại đươc trỗi dậy, đèn trong khán phòng tắt hết, mọi người ra sàn nhảy theo điệu nhảy truyền thống của Afghanistan rộn ràng. Các chàng trai và thiếu nữ múa xung quanh dàn trống, dâng các rổ quà cho đôi uyên ương theo đúng phong tục. Vợ chồng tôi cũng bước ra tham gia, gia đình bạn bè da trắng phía bên cô dâu cũng hòa vào đám đông nhảy nhót, khung cảnh “đa văn hóa đa màu da” thật đẹp. Chúng tôi ngắm các em gái nhỏ mặc đầm kiểu Afghan sặc sỡ, các em thiếu niên hớn hở rạng ngời, các bà các cô và các người lớn tuổi nhìn đám con cháu cũng vui lây, và trong khóe mắt của họ thỉnh thoảng chợt rươm rướm nỗi sầu vì thương nhớ những thân nhân, đồng bào máu mủ còn kẹt lại quê nhà với chế độ độc tài Taliban.
    Trời ơi, chưa có đám cưới (không phải người Việt) nào làm cho tôi có nhiều cảm xúc vui buồn như cái đám cưới này!

 

Kim Loan

(Edmonton, 10/2023)

 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T
Một ngày nọ, ngài gặp một bà mẹ, bà ôm một đứa con vừa mất vừa đi vừa khóc lóc thảm thiết, ai cũng mũi lòng thương, thông cảm vì mất con là nỗi đau khổ nhứt trong cuộc đời… người ta mách bảo là bà nên gặp Sa Môn Cồ Đàm, bà sung sướng bế con đã mất đi ngay và gặp phật, xin phật dùng phép thần thông cứu sống con bà. Xung quanh phật, các tì kheo đang ngồi cầu nguyện cho chúng sanh được giải thoát và cũng cầu nguyện cho các chúng sanh còn tại thế sẽ may mắn mà gặp được giáo pháp của Như Lai. Rồi người mẹ đau khổ cũng được gặp phật.
Cuối tháng Ba, những cơn gió nóng tràn về thành phố. Một hai trận mưa lạc loài đến sớm rồi thôi. Không khí ngột ngạt. Mùi đất nồng khó chịu. Như một cô gái uể oải trong cơn bệnh, thành phố trông mệt mỏi, rạc rời. Đoan đi vào Câu lạc bộ của trường. Bình thường, cứ đến thứ Sáu là không khí chuẩn bị cho chiều văn nghệ thứ Bảy lại nhộn nhịp. Nhưng hôm nay, như có một cái gì kéo mọi thứ chùng xuống. Chị Thuận, người phụ trách Câu lạc bộ, mỉm cười khi thấy Đoan, nhưng là một nụ cười kém tươi. Chị vẫn câu chào hỏi thường lệ: “Em uống gì không?” “Dạ, chị cho em nước chanh.” Chị Thuận pha ly nước chanh đặc biệt, nóng, ít đường, mang đến để trước mặt Đoan, và kéo ghế ngồi xuống bên Đoan. Hình như không có gì để bắt chuyện, chị Thuận nhìn ra sân, nói nhỏ:
Tôi khép cánh cửa phòng ngủ, rón rén bước ra, sợ gây tiếng động làm thằng cháu nội lại giật mình thức giấc; thằng bé đã mười tháng tuổi, biết làm đủ thứ trò như con khỉ con, chiếc mũi bé xíu của nó chun lại, đôi môi dầy cong lên, mỗi khi bà nội bảo nó làm xấu, thật dễ thương, canh nó hơi mệt vì phải chơi cho nó đừng chán, lèo nhèo, nhưng chơi nhiều thì sức bà nội có hạn, làm sao chạy theo nó cả ngày được!
Những cái mặt hướng về phía trước. Những cái đầu hơi cúi, những cái lưng hơi còng có lẽ bởi sức nặng của chiếc ba lô đeo sau lưng, hay tại - nói một cách màu mè, văn vẻ, đầy giả dối là - gánh nặng của đời sống. Trước mặt tối đen. Bên phải là những cánh cửa cuộn bằng tôn đóng kín. Những cánh cửa lạnh lùng, vô cảm; lầm lì từ khước, âm thầm xua đuổi. Dưới chân là nền xi măng. Cứng và lạnh. Không thể là nơi tạm dừng chân, nghỉ mệt. Sâu vào phía sát vách là nền lót những viên gạch vuông. Không một cọng rác. Không một bóng chó hoang, mèo lạc. Không cả những hình hài vô gia cư bó gối vẩn vơ nhìn nhân gian qua lại.
Đức hạnh cao quý thể hiện thành tâm vô phân biệt. Tâm vô phân biệt tạo thành một sự bình đẳng tuyệt đối trong giáo pháp của đức phật. Giáo pháp thâm sâu vi diệu của Như Lai thì không phải ai cũng hiểu hết, cũng ngộ được điều đó đa phần các vị đại trí thấu đạt. Còn lòng từ bi của phật thì lan tỏa vô phân biệt như ánh sáng mặt trời soi sáng khắp nơi nơi, như mưa rơi tắm mát đại ngàn. Những lời giảng dậy trên đây được dẫn chứng nhiều và rõ nhứt là ở phật giáo Tây Tạng.
Anh Hai của tôi, sau chuyến vượt biên thất bại, bị giam ở nhà tù Bình Đại Bến Tre chín tháng, khi trở lại trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ mới biết đã bị cắt hộ khẩu, mất việc làm, bèn quay về Sài Gòn sống tạm với gia đình, chờ cơ hội vượt biên tiếp theo. Một hôm, anh bị cơn sốt rét tái phát hành hạ, (hậu quả của những ngày trong trại giam), cần phải đến bệnh viện chữa trị, nhưng hộ khẩu không có, anh bèn mượn cái Sổ Sức Khỏe của thằng cháu (con bà chị họ ở kế bên nhà), để đi khám bệnh
Năm đó, tôi qua Arlington,Texas thăm gia đình, rồi ghé Dallas thăm người hàng xóm cũ thân thiết từ khi còn ở Việt Nam . Chú Thím ấy đónvợ chồng tôi nồng hậu như mọi khi, bữa ăn đặc sản món Huế như tôi yêu cầu, sau đó kéo nhau ra phòng khách ăn bánh uống trà . Rồi Thím gọi cháu ngoại: - Thiên Ân ơi, ra đây ca hát cho hai bác Canada nghe đi con.-Cô bé hai, ba tuổi tung tăng ngoan ngoãn khoanh tay chào chúng tôi, rồi bạo dạn chạy ra giữa phòng, tay giả bộ cầm micro phone, rồi nhún nhảy tự nhiên hát một bài hát Tiếng Việt thật rõ ràng .
Ngày xưa rất xa xưa, ở vùng quê thôn dã, người dân sống giản dị, đơn sơ, mộc mạc; người ta trồng tỉa những vườn rau cải, vườn ngô, vườn cà… lấy hoa lợi để sống. Thường thường có chim chóc kiếm ăn đến phá phách, dãi dãi, mổ mổ những hạt mới ươm trồng hay những nụ hoa mới ra, chúng ăn, với con người trồng tỉa lấy hoa lợi là chúng nghịch ngợm và phá hoại, ăn khín. Mới đầu chúng đến một vài con, sau rủ nhau đến nhiều hơn, cả nhà cả đàn chim chóc… và người gia chủ trồng tỉa phải tìm cách bảo vệ hoa màu của họ, nguồn sống của họ.
Người đàn bà với tay kéo tấm bạt vải phủ hai mặt bàn thấp và lổng chổng mấy cái ghế úp lại phía trên. Buổi chiều tháng chín nhả vài vệt nắng vàng sậm trên mấy lùm cây mắm khẳng khiu mọc hoang dại bên hông. Căn nhà chia làm hai, phía trên mặt lộ làm quán lộ thiên, phần còn lại là căn nhà sàn nằm doi ra mặt bờ kinh Cụt. Mặt quán cũng được biến dạng mỗi ngày. Sáng có cà-phê, hàng xôi và thuốc lá. Buổi trưa là quán cơm bình dân cho đám khách hàng chợ Giữa, đến từ các huyện xa xôi. Tối đến, chỉ còn vỏn vẹn thùng thuốc lá bán lẻ. Tất cả sinh hoạt biến dạng dưới bàn tay của người đàn bà và đứa con gái nhỏ. Người ta nhìn thấy trong đôi mắt nâu đen của hai má con in đậm hình ảnh căn nhà chật chội, bày biện lượm thượm những ghế bàn buồn bã, lạnh lùng. Bóng dáng người đàn bà và bếp lửa áo cơm, vẫn không đủ vẽ lên khung cảnh đầm ấm của một gia đình. Đứa con gái mười bốn tuổi, giống má, lầm lũi như chiếc bóng trong nhịp đời hờ hững.
Ai cũng có những hoài niệm mang theo cả cuộc đời, hoài niệm ngày càng nhiều theo tuổi tác dâng lên, người may mắn có nhiều hoài niệm vui hơn buồn để khi chợt nhớ thấy lòng vui vui. Ai cũng có những ước mơ thầm kín để khi hoài niệm thấy mình còn là người, giả như ước mơ cho người yêu cũ có cuộc sống hạnh phúc. Điều ấy nói ra ai tin nên xếp vào ước mơ thầm kín, còn những ước mơ nói ra được chỉ là hoang tưởng nhất thời như thấy chiếc xe đẹp lướt qua, ước gì mình có chiếc xe ấy. Nhưng giả sử ngày mai trúng số, có tiền mua chiếc xe ấy thì ước mơ nói ra được hôm qua đã thay đổi thành chiếc xe mắc tiền hơn nữa và đẹp hơn nữa vì là chiếc xe của hôm nay, của người mới trúng số. Khác với ước mơ thầm kính vui buồn riêng mang coi vậy mà theo ta như hình với bóng, càng thầm kín càng bền lâu sau nỗi buồn chia xa đã gặm nhấm tâm can theo tháng ngày, nghe tin người xưa không hạnh phúc thì nỗi buồn tăng lên gấp đôi nhưng nói ra ai tin trong trời đất bao la này…
Truyện HOÀNG CHÍNH - Thứ Mùa Màng Không Có Thật


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.