Hôm nay,  

Đi dự tiệc cưới

18/10/202317:35:00(Xem: 2894)
Truyện

IMG_7382

Hồi đầu tháng, ông xã tôi nhắc:
    – Cuối tháng này tụi mình đi đám cưới nhé em.
    – Em biết rồi, đám cưới cậu pharmacist trong tiệm anh chớ gì, mà em quên hỏi, cậu ấy người Việt hay Tây?
    – Cậu ấy là dân gốc Afghanistan, lấy vợ là người da trắng, cũng là nhân viên trong tiệm, nói chung đây là đám cưới mà cả cô dâu chú rể đều là “lính” của anh, cho nên vợ chồng mình cố gắng đi chung vui với họ . Mà em hỏi chi vậy?
    – À, nếu là đám cưới người Việt thì mình sẽ... thong thả chút xíu.
    – Đây là đám cưới Tây, hơn nữa anh là boss của họ, mình không những đến đúng giờ mà  nên đi sớm để bày tỏ sự quan tâm, trân trọng ngày vui của hai đứa.
    – Em biết rồi, anh khỏi phải nhắc.
    Thật ra, anh ấy nhắc không thừa và không oan tí nào, mà cũng đâu phải lỗi tại tôi, chỉ tại các tiệc cưới Người Việt Nam luôn luôn trễ giờ hơn cả tiếng so với giờ mời trên thiệp, đã từng làm bụng tôi đói cồn cào, choáng váng mặt mũi xanh lè như tàu lá chuối. Từ đó, hễ đi ăn cưới dân Việt là tôi ăn trước chút snack, và đến trễ khoảng mười lăm phút hoặc nửa tiếng. Chồng bảo tôi qua xứ này rồi mà chưa học hỏi thói quen đúng giờ của người ta, nhưng khổ quá, dù tôi đã vài lần đến đúng giờ thì tình trạng là “vũ như cẩn”, ngồi ngáp dài ngáp ngắn mỏi cả lưng, nên tôi chọn kiểu “lưng chừng”, đi trễ chút xíu nhưng vẫn trong nhóm đến sớm, đợi chờ những người đến sau.
    Thiệp mời cocktail 6 giờ và tiệc chính thức 7 giờ, vì chồng tôi còn bận làm việc nên chúng tôi chọn giờ vào tiệc, có mặt lúc 6 giờ 45 phút, khi mọi người đã xong phần cocktail đang ngồi yên vị nhỏ to chuyện trò trong tiếng nhạc dịu êm chờ giờ khai mạc. Chúng tôi chào hỏi vài người xung quanh, quan sát không gian nơi tổ chức tiệc, được một lúc thì người MC bước lên podium thông báo, giờ khắc quan trọng đã đến, đôi tân lang sẽ xuất trong giây lát. Mọi người cùng im lặng, hướng ra ngoài cửa, tôi nhìn đồng hồ, đúng 7 giờ, hay nói chính xác hơn là còn 3 phút nữa mới đúng 7 giờ!
    Tôi nhớ có lần đi dự một đám cưới người Việt trong cộng đồng, vợ chồng tôi như thường lệ rời nhà đúng giờ... mời trên thiệp (nghĩa là sẽ đến nơi trễ mười lăm, hai mươi phút). Ra đường chồng tôi mới nhớ xe gần hết xăng, tôi bảo:
    – Còn sớm mà anh, cứ từ từ đi đổ xăng cho đầy.
    Đổ xong xuôi, xe chạy bon bon hướng ra high way về dưới phố, tôi nhẩn nha nghe nhạc và soi gương trên xe, bỗng phát hiện ra tôi đã quên tô son môi, vì trước đó bận rộn thử đi thử lại mấy cái áo đầm để chọn một cái ưng ý, rồi chồng tôi thúc giục sợ trễ nên tôi sơ sót trong lúc trang điểm chăng? Bình thường trong bóp tôi luôn có cây son, và chai nước hoa nhỏ, vậy mà bữa đó trời xui đất khiến tôi đổi chiếc bóp khác, rồi lại quên bỏ son vào, báo hại tôi phải năn nỉ chồng:
    – Anh ơi, làm ơn quay về nhà, em quên cây son rồi.
    Chồng tôi cằn nhằn:
    – Mình đã trễ 15 phút rồi đấy.
    – Ôi, chạy về nhà thì mình trễ nửa tiếng, cũng vẫn là ... sớm, anh tin em đi.
    – Anh biết, nhưng thà mình đến đó ngồi chờ, còn hơn là vác cái mặt đến quá trễ, anh không làm được.
    – Thì dù sao cũng chỉ trễ... nửa tiếng thôi mà, đôi môi em tái nhợt thế này thà em chết còn sướng hơn đó.
    Chồng đành phải đưa tôi về, tôi chạy lên phòng tô son, cẩn thận bỏ cây son vào bóp, rồi vội vàng ra xe, trực chỉ đến tiệc cưới. Nhưng thật không ngờ, “họa vô đơn chí” là có thật, nghe nói ngay trên giữa highway vừa có một tai nạn, hai xe tông ngược chiều vào nhau, đầu xe bể tan tành, xe cứu hỏa, ambulance và xe cảnh sát nhốn nháo chặn đường chỉ còn 1 lane cho mỗi bên. Chúng tôi khổ sở nhích từng đoạn đường, cuối cùng đến nơi parking trễ 1 tiếng 15 phút. Hai vợ chồng hối hả đi vào nhà hàng tiệc cưới, chẳng dám nhìn ai vì xấu hổ, nhưng ô kìa, tiệc vẫn chưa bắt đầu, người ta vẫn đứng ngồi lai rai cụng bia, tán dóc. Chị Bảy, được nhiều người Việt ở thành phố tặng cho danh hiệu “chuyên gia đi trễ” của cộng đồng, luôn luôn có mặt sau cùng ở các buổi tiệc, thấy tôi liền chạy đến chào rồi mỉm cười:
    – Chị tưởng chị là “nữ hoàng đến muộn” mà hôm nay vẫn... sớm hơn em.
    Tôi lí nhí:
    – Bị kẹt xe, tai nạn trên highway chị ơi.
    – Vậy à, nhưng em yên tâm, em vẫn còn sớm hơn... nhơn vật chính là cô dâu.
    – Có chuyện gì hở chị?
    Chị Bảy lắc đầu, thở dài:
    – Thiệt là xui xẻo tận mạng, hồi trưa đi chụp hình cưới ngoài park , cô dâu vướng víu đuôi áo soa-rê và giày cao gót, bị té dập mặt xuống bãi đá nhọn, máu me lênh láng, đưa đi cấp cứu, mới được xuất viện cách đây một giờ, đang đi tiệm make up và làm tóc lại toàn bộ.
    Dù chúng tôi thoát nạn vươt qua “danh hiệu nữ hoàng” đi trễ của chị Bảy, ông xã nhất quyết từ nay phải luôn đến đúng giờ, dù là tiệc của người Việt, người da trắng da đỏ hay da màu. Tiếng nhạc xập xình đưa tôi về với tiệc cưới hiện tại . Ôi, đám cưới Tây có khác, ngoài việc giờ giấc y boong, là những thủ tục giới thiệu cha mẹ hai bên rất gọn gàng (không dài dòng, diễn văn lê thê), và tuyệt nhiên không có tiếng cụng ly ồn ào “dzô dzô chăm phần chăm”, nhất là khi cô dâu chú rể cùng đại diện hai họ lên phát biểu, cả gian phòng chăm chú lắng nghe, cùng những tràng vỗ tay không dứt mừng cho đôi uyên ương.
    Đến lúc xếp hàng đi lấy thức ăn kiểu buffet, ông xã tôi dừng lại nói chuyện với ba má chú rể, họ mặc trang phục Afghanistan trang trọng, vui vẻ đưa dĩa cho từng vị khách, nhưng lại đượm buồn khi nói về sự thiếu vắng một số thân nhân còn ở lại Afghanistan kể từ ngày quân Taliban tiến về “giải phóng Kabul” cách đây hơn hai năm.
    Làm sao tôi quên được ngày đó, vì cũng là ngày funeral của Ba tôi. Ngày 16 tháng 8 năm 2021 khi đại gia đình chúng tôi trở về nhà ăn tối sau khi an táng Ba yên nghỉ tại nghĩa trang Arlington, Texas, vừa xem tin tức nóng hổi những hình ảnh quân Taliban tràn ngập thủ đô Kabul trong khi nhiều người dân hoảng hốt “chạy giặc”, cố bám theo chiếc máy bay sắp cất cánh đưa những người Afghan tỵ nạn rời khỏi quê hương.
    Có khác gì sư hỗn loạn ngày 30 tháng 4 năm xưa khi Sài Gòn bị “giải phóng”? Những khuôn mặt căng thẳng, lo sợ, bằng cả mạng sống muốn chạy khỏi quân khát máu đang thâu tóm quê hương. Rồi hình ảnh đám quân Taliban ùa vào dinh Tổng Thống Ashraf Ghani (lúc ấy đã bay ra khỏi nước, hiện đang tỵ nạn ở Ả Rập), chúng sờ mó chiêm ngắm các vật dụng sang trọng trong dinh cũng như những máy móc hiện đại tối tân với những cặp mắt ngưỡng mộ đầy kinh ngạc (tội nghiệp chúng bao năm ở rừng rú hang động, nào được tiếp xúc với văn minh loài người). Cũng y chang như những câu chuyện chúng ta thường nghe dân Sài Gòn truyền tai nhau về sự ngây ngô (mà khoái nổ) của các anh cán ngố Cộng Sản Việt Nam.
    Lúc ấy, tôi đang học tiểu học trường Đồng Tháp, trước đây là khu quân đội của chính quyền VNCH, xung quanh trường học là những khu cư xá sỹ quan, các ngôi nhà lầu đúc một tầng, có lan can xinh xắn trước nhà, và mảnh sân nhỏ trồng cây tỏa bóng mát rất đẹp. Sau 1975, các gia đình cán ngố dọn vào ở. Chèn đéc ơi, sân trước chúng rào lại, chặt bỏ những cây điệp, cây trứng cá, thay vào đó là trồng rau muống, nuôi lợn “cải thiện đời sống”. Chưa hết đâu nhé, balcony thơ mộng với những chậu hoa leo cũng bị chúng vứt bỏ, rồi giăng dây kẽm phơi quần áo màu xanh... “bộ đội”, đôi khi còn treo cả nón cối và dép râu ở ngoài hiên nữa cơ, cứ như sợ người ta không nhận ra “bố mày là ai” hay sao á!
    (Ủa, hình như tôi đang đi... lạc đề!? Thôi dừng lại ở đây, kẻo viết nữa thì bài này sẽ bị/được xếp qua bài chủ đề tháng Tư Đen năm tới)
    Nhạc lại đươc trỗi dậy, đèn trong khán phòng tắt hết, mọi người ra sàn nhảy theo điệu nhảy truyền thống của Afghanistan rộn ràng. Các chàng trai và thiếu nữ múa xung quanh dàn trống, dâng các rổ quà cho đôi uyên ương theo đúng phong tục. Vợ chồng tôi cũng bước ra tham gia, gia đình bạn bè da trắng phía bên cô dâu cũng hòa vào đám đông nhảy nhót, khung cảnh “đa văn hóa đa màu da” thật đẹp. Chúng tôi ngắm các em gái nhỏ mặc đầm kiểu Afghan sặc sỡ, các em thiếu niên hớn hở rạng ngời, các bà các cô và các người lớn tuổi nhìn đám con cháu cũng vui lây, và trong khóe mắt của họ thỉnh thoảng chợt rươm rướm nỗi sầu vì thương nhớ những thân nhân, đồng bào máu mủ còn kẹt lại quê nhà với chế độ độc tài Taliban.
    Trời ơi, chưa có đám cưới (không phải người Việt) nào làm cho tôi có nhiều cảm xúc vui buồn như cái đám cưới này!

 

Kim Loan

(Edmonton, 10/2023)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.