Hôm nay,  

Cu ky Ba Thới

25/10/202309:15:00(Xem: 2713)
Truyện

Nam Bộ

Nhà Ba Thới ở trong khu vườn rộng. Hồi đó, khi còn cha, cha thường hay mời ban hội đồng về chè chén suốt, nên vui, lúc nào cũng có tiếng cười, tiếng chạm ly leng keng. Thế mà khi cha chết đi, nhà có 5 anh chị em, tự nhiên, lại xa rời nhau. Mỗi người em làm nhà trên một khoảng đất được chia. Bên này ngó qua bên kia thông thống. Mà nhà ai nấy ở, đèn ai nấy sáng, đi ra ngoài gặp nhau ngó lơ, không cười một cái, từ mấy chục năm nay.
    Ba Thới là con trai cả nên được ở ngôi nhà ngói chính. Căn nhà xây cũng được hơn cả trăm năm, từ ông cố nào đó để lại, đến đời cha, căn nhà vẫn bền vững, nhưng đến đời Ba Thới thì bắt đầu oải, sụt lỡ, mục nát. Mái ngói sụp xuống một bên, mưa giọt lỗ chỗ. Ba Thới không lợp lại vì có tiền đâu mà lợp, nên càng ngày mái ngói càng sệ, khiến những người bạn đến chơi, không ai giám đi ngang dưới chỗ ngói sệ, sợ ngói rớt trúng đầu, bị thương, chảy máu, thì biết đền ai.
    Chị Thoàn vợ Ba Thới ở trên xóm Gò Giai. Thoàn học tiểu học cùng Ba Thới tại trường An Mỹ Hạ. Ba Thới học tên Thoàn một lớp. Quen nhau biết mặt nhau, thế thôi. Lúc đó, thời tiểu học, cô bé, cậu bé nào đi học cũng chỉ lo hết giờ tan lớp thì chạy u về nhà lo lùa bò ra đồng ăn cỏ, hay đi câu cá, bắn chim. Chuyện nghĩ đến nhau là không có, vì trái ớt và con bướm của tụi nó còn nhỏ híu, non tơ.
    Đến năm Ba Thới hai mươi mốt tuổi, cha thúc lấy vợ, mi đã lớn sộ rồi, lo kiếm vợ đi, mi thấy con nào được là tau đi nói cho. Ba Thới ú ớ. Tìm kiếm ai đây? Ba Thới cũng có vài mối tình vụn ở xóm vạn đò. Con gái vạn đò ngủ trên ghe suốt năm suốt tháng. Con Thuyết, con Lài, con Tưởng. Đi hỏi mấy con này chắc cha không chịu. Ai lại lấy gái vạn đò không có miếng đất chọi chim. Ba Thới nghĩ vậy nên nói với cha. Con biết ai đâu mà kiếm cha. Cha nói, mi kiếm không được để tau kiếm cho. Thế là cha hỏi ông Tân, người bạn cùng làm hội đồng với cha ở trên xóm Thạnh Mỹ, ông biết có đứa con gái nào bà con với ông cũng được, để tui đi nói cho thằng Ba. Ông Tân suy nghĩ trong đầu, rồi gục gặc, có con Thoàn, con anh hai tui, mươi chín tuổi, trình độ tiểu học. Để tui giới thiệu con nớ về làm dâu ông, được không?
    Thế là Thoàn về làm dâu nhà cha. Ba Thới chấp nhận, vì hồi tiểu học hai đứa đã nhìn biết nhau rồi. Cũng tạm gọi là cố nhân. Cặp vợ chồng sống vui, sống hạnh phúc, suốt mấy chục năm. Tuy không tình tứ như những bản nhạc tình sến sịa, ca tụng tình lúa duyên trăng, trăng rụng xuống cầu, chỉ hai đứa mình thôi nhé. Hai vợ chồng chỉ nói đến việc làm ruộng, cày sâu cuốc bẩm. Sau ngày cha chết rồi đến ngày trời sụp, Ba Thới lại càng ít nói hơn. Đi làm ruộng quanh năm suốt tháng, sáng ra đồng, chiều ra đồng, cày cày, cuốc cuốc...mãi miết như thế, mà chỉ đủ ăn. Lại còn nuôi hai đứa con, một trai một gái, đang đi học, trung học rồi đại học ở tận thành phố xa. Mỗi lần như vậy hai vợ chồng lo gom lúa, thuốc lá, đậu xanh, đậu đen, bán ra lấy tiền để tuần sau thằng hai Lâm về lấy, nó đã nhắn về rồi, không có tiền nó buồn tội nghiệp.
    Rồi đến con Hà cũng đi học xa, vợ chồng Ba Thới lại gom góp tiền cho nó học sư phạm. Cho nên làm mùa, cứ mùa nào phủi lủm ngày đó. Vậy giấc mộng mua chiếc xe gắn máy chạy cả chục năm rồi, nung nấu trong lòng Ba Thới, vẫn chưa thực hiện được. Vẫn chạy chiếc xe đạp đi làm đồng, đi công chuyện, đi thăm bà con, đều dùng con ngựa trời ngóng cổ mà thôi.
    Hai vợ chồng nói vậy chứ cũng có những ngày tháng đẹp, thơ mộng. Nhất là những buổi tối sáng trăng. Trăng nằm trên tầng mây xanh cao chót vót nhả những luồng ánh sáng vàng ròng xuống dãi sân gạch rộng. Hai vợ chồng trải chiếu ra nằm ngắm trăng. Trời ban ngày nắng và nóng làm con người ai cũng khô rang, nhưng buổi tối lại hiền hòa mát mẽ, nhờ những cơn gió thổi qua khu đồng Đất, qua con suối Trà, qua đồng ruộng rộc trước sân nhà, rồi len lỏi qua hàng rào, vào sân, có hai vợ chồng Ba Thới nằm, mát rượi.
    Một cảnh tượng hạnh phúc thường có ở vùng quê. Hai vợ chồng trải chiếu ngắm trăng. Thoàn nằm gối đầu lên đùi Ba Thới, anh thấy không, ông trăng đang nhìn mình kìa. Ba Thới xoa tóc vợ, nhìn thì nhìn chứ mình sợ gì, có lén lút gì đâu? Thoàn đưa tay xoa bóp tấm lưng to bè của chồng, cô vừa xoa vừa bóp, vừa thọc lét, khiến Ba Thới mắc cười, cười lên ồ ồ, nhột tau quá mi, mi bóp nhẹ thôi. Thì ông cúi sát xuống đây tui mới bóp cho ông được. Ba Thới cúi sát người xuống, Thoàn trườn người lên quá lưng, véo một cái đau điếng, Ba Thới la lên, đau tau quá mi. Ba Thơi kêu ré.
    Thoàn nói, ông la lớn quá, để tụi nhỏ còn học bài. Lúc này Ba Thới mới nhớ có hai đứa con đang học bài trong nhà. (Ở một vùng quê mà tiếng gọi tau, mi, giữa đôi vợ chồng, coi như là thường yêu, thì nó cũng có nghĩa như anh anh, em em vậy). Đó là những ngày hạnh phúc nhất của Ba Thới và Thoàn.
    Dù nghèo mà vui hỡi ai không hé môi cười.
 
***
 
Một buổi sáng như bao buổi sáng khác, Thoàn đạp xe xuống chợ Vạn mua đồ. Vừa thu hoạch xong, hai vợ chồng sau khi chi tiêu, suy nghĩ cho con ăn học ở xứ Đà cũng tốn bộn. Nhưng tốn kém bao nhiêu cũng cho tụi nó ăn học đến nơi đến chốn. Còn dư lại một ít, Thoàn định xuống chợ Vạn mua chút đồ dùng, trước nhất là mua cho Ba Thới chiếc áo sơ mi coi được được, chứ Ba Thới bận chiếc áo cũ hoài trông lam lũ quá. Rồi sẽ mua thêm cho Ba Thới đôi giép sa bô, cho anh diện khi đi đến nhà bạn. Rồi Thoàn cũng định mua cho mình chiếc quần lãnh đen, cái áo bà ba màu gụ mỹ á. Thoàn dự tính trong đầu hết rồi, đã lên kế hoạch hết rồi, chỉ còn đạp xe một mạch xuống chợ Mai. Gởi xe đạp ở chợ Mai, Thoàn len lách vào đám đông, cô mua nhanh và gọn, chớ để Ba Thơi chờ cơm ở nhà Thoàn cảm thấy thương.
    Xe đạp chạy vù vù về đến xóm Kỳ, chỉ còn quẹo trái lên đường tỉnh lộ là bon bon đến nhà, vì đường từ xóm Kỳ lên xóm Phước, con đường huyết mạch lưu thông các xã lân cận với nhau, tất cả đều đổ xuống chợ Vạn theo con đường này. Bỗng đâu từ sau, Thoàn nghe một cái rầm. Cái rầm của chiếc xe gắn máy tông mạnh vào đít chiếc xe đạp của Thoàn. Cú húc quá mạnh của một tên học sinh trường tỉnh, con ông cháu cha, chạy thục mạng. Tay học sinh lạn lách tránh chiếc xe đò đi ngược, nên lạc tay lái, tông vào Thoàn. Thoàn ngã nằm xuôi theo chiếc xe, đầu đập mạnh xuống hòn đá ba lác dưới đường, chết ngay tại chỗ. Áo quần Thoàn mua sắm cho gia đình đổ tung tóe vung vải khắp nơi.
    Người đi đường thấy vậy liền kêu xe cứu thương. Họ chở Thoàn vào bịnh viện đa khoa, nhưng đã trễ. Ba Thới hớt hải chạy vào, thấy vợ nằm im dưới tấm ra trắng che kín mặt. Ba Thới khóc rúc lên từng hồi. Tiếng khóc của người đàn ông khóc vợ chết bất ngờ, thật đáng thương, bi thảm quá!
    Chôn cất vợ xong, Ba Thới tĩnh người lại một chút, anh biết mình đứng trước một vực thẳm vô hình sâu hun hút. Hai đứa con từ phố thị xứ  Đà trở về khóc mẹ. Khóc thảm thiết, khóc lăn lộn trước khi quan tài hạ huyệt. Nhưng rồi tụi nhóc cũng phải về nơi cũ lo học hành, chỉ còn lại Ba Thới với căn nhà rộng-thênh-thang-đầy-mối-mọt-rêu-cỏ-xanh-rì.
    Ba Thới ngơ ngác, đi hết nơi này đến nơi khác, đúng là người mất hồn. Chỗ nào có đông người là Ba Thới tấp vô, anh Ba vô chơi, buồn quá hả anh Ba, cô Ba thiệt vắn số, cái rủi ro quá nghiệt, anh Ba há! Ba Thới không trả lời trả vốn. Trong cuộc rượu của mọi người, Ba Thới cầm chai rượu lên rót vào một ly không, rồi nốc cạn. Ba Thới im lặng như pho tượng. Không một lời nói, không một nụ cười, chỉ khi ly rượu xoay vòng đến phiên Ba Thới, anh lại uống một ly đầy, uống cạn, lại rót một ly nữa, một ly nữa. Đám bạn nhìn Ba Thới thương tâm. Cuối cùng Ba Thới xuệnh xuạng bước ra đường, nhảy lên xe đạp chạy vòng vo về căn nhà mốc thếch của mình, cũng hơn một tiếng đồng hồ, vì đi lòng vòng mãi.  Về là leo lên võng ngủ khò.
    Chỗ của Ba Thới ngủ, bên trên có treo một tấm hình của Thoàn. Thoàn bận áo dài xanh da trời trông quê quê nhưng đẹp. Tấm hình màu mà nay đã nhợt nhạt, gần biến thành hình trắng đen. Một bình cắm nhang đặt trên cái bàn cao sát tường. Mỗi-sáng-mỗi-chiều-mỗi-tối, Ba Thới thắp hương đều chi trước di ảnh của Thoàn, người vợ đầu gối tay ấp mấy mươi năm. Bây giờ xa quá rồi em hỉ! Anh nhớ em lắm. Sao em bỏ anh mà đi. Thoàn ơi! Thoàn ơi! Ba Thới khóc lên hồng hộng.
    Ba Thới sống cu ki một mình suốt từ đó, năm năm rồi, tóc đã bạc nhiều. Anh bước qua tuổi bảy ba. Ba Thới-khóc-vợ-hằng-ngày-hằng-đêm-hằng-khuya, khóc-mà-không-ra-nước-mắt. Đó-gọi-là-những-giọt-nước-mắt-khô.

 

– Trần Yên Hòa

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi xin nhắc lại vài kỷ niệm với các bạn tại trường Quốc Gia Kỹ Sư Công Nghệ mà tôi còn nhớ được. Trường chúng ta không còn ở bên ta nữa, nhưng những kỷ niệm, những tình cảm thân thương dành cho trường và cho nhau, đã từ bao năm nay, dường như không thể phai mờ trong trái tim của mỗi chúng ta. Nhắc lại những kỷ niệm đó, không phải để nuối tiếc những gì đã qua hay đã mất, mà chính là để nuôi dưỡng những cái cần được và cần phải trân trọng giữ gìn...
Khi tôi về. Thời gian nghỉ phép quá ngắn ngủi nên tranh thủ tận lực đi đây đi đó để tận mắt thấy, tận tai nghe. Tôi thu thập khá nhiều những chi tiết, thông tin, tư liệu để mà viết; những thông tin tiêu cực có, tích cực có với trực giác khá bén của mình, tôi lựa chọn những gì tốt và thật nhất, có một điều là “Sự thật mất lòng”, sự thật khó nghe, nghịch nhĩ nên cũng dễ bị phản ứng cực đoan, nhất là với dân mít nhà mình, đừng nói là quan quyền chức sắc, ngay cả dân đen con đỏ cũng thế...
Dù xa xôi cách trở đến đâu, điều ước mơ duy nhất là mong gặp lại Chị. Tôi biết, ở một góc trời nào đó, Chị cũng thường nhớ và ao ước như tôi. Đời sống, chợt có những ra đi biền biệt không ngờ, như một tiếng hát vút bay, rồi mất tăm trong gió...
Hồi đó, sau thế giới chiến tranh, vừa hồi cư về Huế, gia đình tôi sống chật vật trên đồng lương giáo viên ít ỏi của Mẹ. Không phải dễ để nuôi tám miệng ăn: năm người lớn, ba trẻ con. Qua giao thiệp, quen biết Mẹ và hai Dì được người ta nhờ cậy đan áo len và công việc ấy đã đem thêm chút đỉnh tiền cho gia đình. Trong hoàn cảnh sau chiến tranh, áo len rất quý. Người ta đã mất đi những chiếc áo len tốt khi chạy về làng tránh bom đạn. Nay ai cũng cần áo len để qua mùa đông vì mùa đông của Huế rất lạnh, cái lạnh ẩm, buốt vào tận xương. Mưa dầm dã, ngày này qua tháng nọ. Qua Xuân mới có tí nắng ấm...
Không có nhân vật chính diện nào trong tác phẩm tiểu thuyết này của Pamuk, mà là một tập hợp những nhân vật và đồ vật – một cái thây ma mới bị giết oan uổng, một đồng tiền, ác quỷ Satan, màu đỏ, hai chức sắc Hồi giáo, v.v… – mỗi “thứ” như thế chiếm phần tự sự mỗi chương sách. Bối cảnh lịch sử là Đế quốc Ottoman thế kỷ XVI, và nền tảng triết học Hồi giáo dĩ nhiên là trọng điểm của cuốn tiểu thuyết, nhưng cũng có những phân đoạn thấm đẫm tính kỳ bí và trữ tình. Đọc tác phẩm, độc giả người Việt có thể nhận ra một điểm tương đồng giữa Hồi giáo và tín ngưỡng dân gian Việt Nam là, sau khi chết, linh hồn con người vẫn tồn tại trên thế gian và có thể nghe ngóng những gì người sống nói.
Michelle Obama mang đến cho độc giả một loạt câu chuyện mới mẻ và những suy ngẫm sâu sắc về sự thay đổi, thách thức, sức mạnh, bao gồm cả niềm tin của bà: khi thắp sáng cho người khác. Chúng ta có thể khai sáng sự phong phú và tiềm năng của thế giới xung quanh, khám phá những sự thật sâu sắc hơn và những con đường mới cho sự tiến bộ. Rút ra từ kinh nghiệm của mình với tư cách là người mẹ, con gái, người phối ngẫu, người bạn và Đệ nhất phu nhân, bà ta chia xẻ những thói quen và nguyên tắc mà bà đã phát triển để thích nghi thành công với sự thay đổi và vượt qua những trở ngại khác nhau.
Mỹ và Canada có nhiều ngày Lễ giống nhau, nào là Christmas, New Year, Halloween, Mothers Day, Fathers Day… nhưng cũng có hai ngày Lễ không trùng ngày. Đó là ngày Quốc Khánh , Canada Day hay còn gọi là Quốc Khánh vào ngày July 1st hàng năm, trong khi Independent Day của Mỹ là July 4th, cũng không cách xa là bao, chẳng lẽ Mỹ và Canada là... anh em từ kiếp trước?
Có bà nội trợ ghé lồng gà bà Cam xem không vừa ý bèn sang bên “con đó” mua làm bà Cam tức bà khách thì ít mà hận con Thịnh thì nhiều. Xưa nay bà Cam bán gà chợ An Đông nổi tiếng, khó có ai thoát khỏi tay bà một khi đã sà vào hỏi mua là phải mua xong mới đi khỏi được. Nay có những khách quen đã né mặt bà, họ đến thẳng hàng con Thịnh mua bán lẹ làng mau chóng hơn, vừa ý hơn. Rõ ràng là con Thịnh đã cướp khách hàng của bà...
Tôi bắt đầu nghe tên anh khi đọc bài viết “Khánh Trường, Sức Mạnh Của Im Lặng” của họa sĩ Đinh Cường vào tháng 1/2012 nhân dịp anh bày 30 bức tranh Thiền. Lúc đó, tôi chỉ biết anh là một họa sĩ như anh Đinh Cường đã nhận xét, “Tôi thật sự cảm phục bạn ở Sức Mạnh Của Im Lặng và tìm chốn nương tựa cho tâm hồn mình: Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Như Nietzsche với hình ảnh Zarathustra đã gợi lên lộ trình sâu rộng của một bậc Đại Bồ Tát giữa lòng đen tối của thế gian...
Tôi loay hoay mấy bận mà không viết được, trong lòng vẫn còn nhiều cảm xúc lẫn lộn thật khó nói nên lời. Những cảm xúc cứ cuồn cuộn làm cho tôi không biết nên bắt đầu viết như thế nào, vả lại những điều mắt thấy tai nghe, những câu chuyện không đầu không cuối đầy ắp nên không biết điều nào nên lấy cái nào lược bớt đi...
Tôi chăm chú sửa sang hồ sơ. Đổi màu các đường biểu diễn, thay đổi khổ chữ, kiểu chữ để người đọc có thể nhận thấy ngay trọng tâm của bài thuyết trình. Suốt mấy tuần nay, nhóm controller tụi tôi, chạy lui tới như những con lật đật. Trước mặt mỗi đứa, dán tờ lịch tổ tướng của tháng chín và tháng mười...
Một buổi sáng, Anders, người đàn ông da trắng, thức dậy, thấy da mình đổi sang màu nâu đậm, không thể nào phủ nhận. Chuyện này xảy đến từ từ, rồi đột nhiên, nhận thấy rõ ràng. Đầu tiên là cảm giác khi anh đưa tay lấy điện thoại, ánh nắng ban mai như đang làm điều gì kỳ lạ với màu da trên cánh tay. Sau đó, nhất thời bật ra ý nghĩ, có người nào khác đang nằm chung giường với anh, một đàn ông da đen, mặc dù đáng kinh sợ, nhưng chuyện này chắc chắn không thể xảy ra.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.