Hôm nay,  

Cu ky Ba Thới

25/10/202309:15:00(Xem: 2718)
Truyện

Nam Bộ

Nhà Ba Thới ở trong khu vườn rộng. Hồi đó, khi còn cha, cha thường hay mời ban hội đồng về chè chén suốt, nên vui, lúc nào cũng có tiếng cười, tiếng chạm ly leng keng. Thế mà khi cha chết đi, nhà có 5 anh chị em, tự nhiên, lại xa rời nhau. Mỗi người em làm nhà trên một khoảng đất được chia. Bên này ngó qua bên kia thông thống. Mà nhà ai nấy ở, đèn ai nấy sáng, đi ra ngoài gặp nhau ngó lơ, không cười một cái, từ mấy chục năm nay.
    Ba Thới là con trai cả nên được ở ngôi nhà ngói chính. Căn nhà xây cũng được hơn cả trăm năm, từ ông cố nào đó để lại, đến đời cha, căn nhà vẫn bền vững, nhưng đến đời Ba Thới thì bắt đầu oải, sụt lỡ, mục nát. Mái ngói sụp xuống một bên, mưa giọt lỗ chỗ. Ba Thới không lợp lại vì có tiền đâu mà lợp, nên càng ngày mái ngói càng sệ, khiến những người bạn đến chơi, không ai giám đi ngang dưới chỗ ngói sệ, sợ ngói rớt trúng đầu, bị thương, chảy máu, thì biết đền ai.
    Chị Thoàn vợ Ba Thới ở trên xóm Gò Giai. Thoàn học tiểu học cùng Ba Thới tại trường An Mỹ Hạ. Ba Thới học tên Thoàn một lớp. Quen nhau biết mặt nhau, thế thôi. Lúc đó, thời tiểu học, cô bé, cậu bé nào đi học cũng chỉ lo hết giờ tan lớp thì chạy u về nhà lo lùa bò ra đồng ăn cỏ, hay đi câu cá, bắn chim. Chuyện nghĩ đến nhau là không có, vì trái ớt và con bướm của tụi nó còn nhỏ híu, non tơ.
    Đến năm Ba Thới hai mươi mốt tuổi, cha thúc lấy vợ, mi đã lớn sộ rồi, lo kiếm vợ đi, mi thấy con nào được là tau đi nói cho. Ba Thới ú ớ. Tìm kiếm ai đây? Ba Thới cũng có vài mối tình vụn ở xóm vạn đò. Con gái vạn đò ngủ trên ghe suốt năm suốt tháng. Con Thuyết, con Lài, con Tưởng. Đi hỏi mấy con này chắc cha không chịu. Ai lại lấy gái vạn đò không có miếng đất chọi chim. Ba Thới nghĩ vậy nên nói với cha. Con biết ai đâu mà kiếm cha. Cha nói, mi kiếm không được để tau kiếm cho. Thế là cha hỏi ông Tân, người bạn cùng làm hội đồng với cha ở trên xóm Thạnh Mỹ, ông biết có đứa con gái nào bà con với ông cũng được, để tui đi nói cho thằng Ba. Ông Tân suy nghĩ trong đầu, rồi gục gặc, có con Thoàn, con anh hai tui, mươi chín tuổi, trình độ tiểu học. Để tui giới thiệu con nớ về làm dâu ông, được không?
    Thế là Thoàn về làm dâu nhà cha. Ba Thới chấp nhận, vì hồi tiểu học hai đứa đã nhìn biết nhau rồi. Cũng tạm gọi là cố nhân. Cặp vợ chồng sống vui, sống hạnh phúc, suốt mấy chục năm. Tuy không tình tứ như những bản nhạc tình sến sịa, ca tụng tình lúa duyên trăng, trăng rụng xuống cầu, chỉ hai đứa mình thôi nhé. Hai vợ chồng chỉ nói đến việc làm ruộng, cày sâu cuốc bẩm. Sau ngày cha chết rồi đến ngày trời sụp, Ba Thới lại càng ít nói hơn. Đi làm ruộng quanh năm suốt tháng, sáng ra đồng, chiều ra đồng, cày cày, cuốc cuốc...mãi miết như thế, mà chỉ đủ ăn. Lại còn nuôi hai đứa con, một trai một gái, đang đi học, trung học rồi đại học ở tận thành phố xa. Mỗi lần như vậy hai vợ chồng lo gom lúa, thuốc lá, đậu xanh, đậu đen, bán ra lấy tiền để tuần sau thằng hai Lâm về lấy, nó đã nhắn về rồi, không có tiền nó buồn tội nghiệp.
    Rồi đến con Hà cũng đi học xa, vợ chồng Ba Thới lại gom góp tiền cho nó học sư phạm. Cho nên làm mùa, cứ mùa nào phủi lủm ngày đó. Vậy giấc mộng mua chiếc xe gắn máy chạy cả chục năm rồi, nung nấu trong lòng Ba Thới, vẫn chưa thực hiện được. Vẫn chạy chiếc xe đạp đi làm đồng, đi công chuyện, đi thăm bà con, đều dùng con ngựa trời ngóng cổ mà thôi.
    Hai vợ chồng nói vậy chứ cũng có những ngày tháng đẹp, thơ mộng. Nhất là những buổi tối sáng trăng. Trăng nằm trên tầng mây xanh cao chót vót nhả những luồng ánh sáng vàng ròng xuống dãi sân gạch rộng. Hai vợ chồng trải chiếu ra nằm ngắm trăng. Trời ban ngày nắng và nóng làm con người ai cũng khô rang, nhưng buổi tối lại hiền hòa mát mẽ, nhờ những cơn gió thổi qua khu đồng Đất, qua con suối Trà, qua đồng ruộng rộc trước sân nhà, rồi len lỏi qua hàng rào, vào sân, có hai vợ chồng Ba Thới nằm, mát rượi.
    Một cảnh tượng hạnh phúc thường có ở vùng quê. Hai vợ chồng trải chiếu ngắm trăng. Thoàn nằm gối đầu lên đùi Ba Thới, anh thấy không, ông trăng đang nhìn mình kìa. Ba Thới xoa tóc vợ, nhìn thì nhìn chứ mình sợ gì, có lén lút gì đâu? Thoàn đưa tay xoa bóp tấm lưng to bè của chồng, cô vừa xoa vừa bóp, vừa thọc lét, khiến Ba Thới mắc cười, cười lên ồ ồ, nhột tau quá mi, mi bóp nhẹ thôi. Thì ông cúi sát xuống đây tui mới bóp cho ông được. Ba Thới cúi sát người xuống, Thoàn trườn người lên quá lưng, véo một cái đau điếng, Ba Thới la lên, đau tau quá mi. Ba Thơi kêu ré.
    Thoàn nói, ông la lớn quá, để tụi nhỏ còn học bài. Lúc này Ba Thới mới nhớ có hai đứa con đang học bài trong nhà. (Ở một vùng quê mà tiếng gọi tau, mi, giữa đôi vợ chồng, coi như là thường yêu, thì nó cũng có nghĩa như anh anh, em em vậy). Đó là những ngày hạnh phúc nhất của Ba Thới và Thoàn.
    Dù nghèo mà vui hỡi ai không hé môi cười.
 
***
 
Một buổi sáng như bao buổi sáng khác, Thoàn đạp xe xuống chợ Vạn mua đồ. Vừa thu hoạch xong, hai vợ chồng sau khi chi tiêu, suy nghĩ cho con ăn học ở xứ Đà cũng tốn bộn. Nhưng tốn kém bao nhiêu cũng cho tụi nó ăn học đến nơi đến chốn. Còn dư lại một ít, Thoàn định xuống chợ Vạn mua chút đồ dùng, trước nhất là mua cho Ba Thới chiếc áo sơ mi coi được được, chứ Ba Thới bận chiếc áo cũ hoài trông lam lũ quá. Rồi sẽ mua thêm cho Ba Thới đôi giép sa bô, cho anh diện khi đi đến nhà bạn. Rồi Thoàn cũng định mua cho mình chiếc quần lãnh đen, cái áo bà ba màu gụ mỹ á. Thoàn dự tính trong đầu hết rồi, đã lên kế hoạch hết rồi, chỉ còn đạp xe một mạch xuống chợ Mai. Gởi xe đạp ở chợ Mai, Thoàn len lách vào đám đông, cô mua nhanh và gọn, chớ để Ba Thơi chờ cơm ở nhà Thoàn cảm thấy thương.
    Xe đạp chạy vù vù về đến xóm Kỳ, chỉ còn quẹo trái lên đường tỉnh lộ là bon bon đến nhà, vì đường từ xóm Kỳ lên xóm Phước, con đường huyết mạch lưu thông các xã lân cận với nhau, tất cả đều đổ xuống chợ Vạn theo con đường này. Bỗng đâu từ sau, Thoàn nghe một cái rầm. Cái rầm của chiếc xe gắn máy tông mạnh vào đít chiếc xe đạp của Thoàn. Cú húc quá mạnh của một tên học sinh trường tỉnh, con ông cháu cha, chạy thục mạng. Tay học sinh lạn lách tránh chiếc xe đò đi ngược, nên lạc tay lái, tông vào Thoàn. Thoàn ngã nằm xuôi theo chiếc xe, đầu đập mạnh xuống hòn đá ba lác dưới đường, chết ngay tại chỗ. Áo quần Thoàn mua sắm cho gia đình đổ tung tóe vung vải khắp nơi.
    Người đi đường thấy vậy liền kêu xe cứu thương. Họ chở Thoàn vào bịnh viện đa khoa, nhưng đã trễ. Ba Thới hớt hải chạy vào, thấy vợ nằm im dưới tấm ra trắng che kín mặt. Ba Thới khóc rúc lên từng hồi. Tiếng khóc của người đàn ông khóc vợ chết bất ngờ, thật đáng thương, bi thảm quá!
    Chôn cất vợ xong, Ba Thới tĩnh người lại một chút, anh biết mình đứng trước một vực thẳm vô hình sâu hun hút. Hai đứa con từ phố thị xứ  Đà trở về khóc mẹ. Khóc thảm thiết, khóc lăn lộn trước khi quan tài hạ huyệt. Nhưng rồi tụi nhóc cũng phải về nơi cũ lo học hành, chỉ còn lại Ba Thới với căn nhà rộng-thênh-thang-đầy-mối-mọt-rêu-cỏ-xanh-rì.
    Ba Thới ngơ ngác, đi hết nơi này đến nơi khác, đúng là người mất hồn. Chỗ nào có đông người là Ba Thới tấp vô, anh Ba vô chơi, buồn quá hả anh Ba, cô Ba thiệt vắn số, cái rủi ro quá nghiệt, anh Ba há! Ba Thới không trả lời trả vốn. Trong cuộc rượu của mọi người, Ba Thới cầm chai rượu lên rót vào một ly không, rồi nốc cạn. Ba Thới im lặng như pho tượng. Không một lời nói, không một nụ cười, chỉ khi ly rượu xoay vòng đến phiên Ba Thới, anh lại uống một ly đầy, uống cạn, lại rót một ly nữa, một ly nữa. Đám bạn nhìn Ba Thới thương tâm. Cuối cùng Ba Thới xuệnh xuạng bước ra đường, nhảy lên xe đạp chạy vòng vo về căn nhà mốc thếch của mình, cũng hơn một tiếng đồng hồ, vì đi lòng vòng mãi.  Về là leo lên võng ngủ khò.
    Chỗ của Ba Thới ngủ, bên trên có treo một tấm hình của Thoàn. Thoàn bận áo dài xanh da trời trông quê quê nhưng đẹp. Tấm hình màu mà nay đã nhợt nhạt, gần biến thành hình trắng đen. Một bình cắm nhang đặt trên cái bàn cao sát tường. Mỗi-sáng-mỗi-chiều-mỗi-tối, Ba Thới thắp hương đều chi trước di ảnh của Thoàn, người vợ đầu gối tay ấp mấy mươi năm. Bây giờ xa quá rồi em hỉ! Anh nhớ em lắm. Sao em bỏ anh mà đi. Thoàn ơi! Thoàn ơi! Ba Thới khóc lên hồng hộng.
    Ba Thới sống cu ki một mình suốt từ đó, năm năm rồi, tóc đã bạc nhiều. Anh bước qua tuổi bảy ba. Ba Thới-khóc-vợ-hằng-ngày-hằng-đêm-hằng-khuya, khóc-mà-không-ra-nước-mắt. Đó-gọi-là-những-giọt-nước-mắt-khô.

 

– Trần Yên Hòa

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Gia đình tôi thuở ấy có hai căn nhà, nên tôi là cư dân của cả hai xóm liền kề nhau: Xóm Chùa và Xóm Đạo. Ngôi chùa Vĩnh Quang nhỏ xíu, nằm đầu con hẻm rộng. Chùa nhỏ nên vườn chùa cũng xinh xinh, với các loại cây trồng làm bóng mát và nhiều loại hoa kiểng, tạo nên một màu xanh tươi êm đềm sau cánh cửa sắt vững chải làm cổng chùa. Tôi thích nhất cây Ngọc Lan cổ thụ ngay góc sân, những buổi trưa vắng có dịp đi ngang qua, mùi thơm của hoa toả lan phảng phất theo những ngọn gió lay thật dễ chịu, nhè nhẹ đi vào lòng người, làm quên hết những âu lo bận rộn đời thường, dù chỉ là trong phút giây...
Chị Bông rời khỏi màn hình computer hào hứng chạy ra phòng ngoài tìm chồng, không thấy, chị chạy bay ra ngoài vườn réo gọi: – Anh ơi! Mùa World Cup!
Và chúng sẽ bỏ cái điện thoại thông minh ra để cầm bút ngòi lá tre hay sao? Chắc tôi đang mơ?...
Cũng như tất cả những người Việt Nam khác, tôi đang nói và viết bằng ngôn ngữ Việt, ai cũng bảo tiếng Việt là chữ quốc ngữ. Thậm chí như cụ Phạm Quỳnh còn đề cao:”… Tiếng Việt còn thì nước Việt còn...” nhưng thật sự tiếng Việt lại không phải do người Việt chế ra, ấy là nhờ công của những giáo sĩ phương tây, cụ thể như những giáo sĩ: Francesco Buzomi (Ý), Diogo Carvalho, Antonio Diaz, Francisco de Pina (Bồ Đào Nha), Alexandre de Rhodes…
Mùa thu, mùa Vu Lan còn níu kéo, mùa còn tưởng nhớ tới mẹ, tới cha. Tôi tưởng nhớ tới dì tôi, dì đây là mẹ kế, người bước sau một bước sau mẹ tôi vào gia đình bên nội tôi...
Ở tuổi 13, cô trở thành cánh tay đắc lực của Mạ cô, phụ giúp Mạ trông coi quán cà phê. Thuở đó, cô chưa hề có chút dáng dấp của nhân vật “nàng” trong bài thơ Tuổi Mười Ba của Nguyên Sa. Cô cũng chưa được phép đọc báo Tuổi Ngọc. Cô mê mẩn chúi đầu, chúi mũi vào báo Thiếu Nhi và Tuổi Hoa. Cô vương vương buồn, rươm rướm nước mắt, khi đọc Chiếc Lá Thuộc Bài của Nguyễn Thái Hải. Cô hồi hộp, tim đập thình thịch, lúc đọc Pho Tượng Rồng Vàng của Hoàng Đăng Cấp...
Chị nhớ rõ từng mô đất nhấp nhô ở khoảng bờ sông này. Hàng ngày chị vẫn lảng vảng quanh đây vớt dăm ba con tép, lắt nhắt như những mảnh móng tay cắt vụn, đem về kho đen quánh cả đáy nồi, ăn rỉ rả với những bát cơm rắc đầy những thóc. Gió luồn những ngón tay ma quái qua lớp vải áo, mấy mò chiếc yếm ngực làm chị rùng mình. Chính khoảng bãi sông này, năm ngoái năm kia người ta đã trôi sông một đôi gian phu dâm phụ trên chiếc bè đóng bằng những róng tre dầy đặc những mắt.
Tôi đứng trong buồng khách, nhìn ra ngoài trời. Trời quang và khô, cơn mưa hôm qua không để lại một vũng nước nào, chỉ giúp cho những chùm lá có mầu xanh sạch bóng, mướt rượt, và những cây có lá vàng thi nhau trút xuống nhưng vẫn giữ lại những cành đẹp nhất để rung múa với gió thu...
Ai sinh ra đời cũng biết ơn ông bà, cha mẹ của mình, cho dù ông bà, cha mẹ còn sinh tiền hay đã qua đời, con cháu vẫn nhớ. Nếu ông bà cha mẹ đã qua đời thì hằng năm đến ngày giỗ dù bận thế nào còn cháu cũng làm đám giỗ cúng ông bà cha mẹ...
Đối với những người yêu thích môn bóng đá thì không ai không biết Giải Bóng Đá Thế Giới (World Cup) năm nay được diễn ra tại Qatar từ ngày 20 tháng 11 đến ngày 18 tháng 12. Tôi cũng xin tự nhận là “fan” của World Cup, với niềm háo hức nôn nao cho mùa giải bốn năm mới có một lần này, được ghi lại chút kỷ niệm của mình với những mùa World Cup đã qua trong đời...
Đó là vào một buổi chiều thời tiết khắc nghiệt của tháng mười, khi Hoàng hậu và tôi, người hầu gái của bà, cùng đi vào một hành lang ở viện bảo tàng Louvre cổ kính ấy, và tôi không thể quên được một khuôn mặt kinh khiếp đó mà cho đến bây giờ, khi ngồi viết lại những dòng này, nét mặt ấy lại hiện ra, cũng như không thể nào không chấp nhận sự thật về việc này...
Thế là tôi cũng chạm được vào giấc mơ, một giấc mơ huyền hoặc lạ lùng kéo dài bao nhiêu năm kể từ khi biết đọc sách, biết mộng mơ… Giấc mơ hình thành từ những dòng chữ trong sử sách, giấc mơ lung linh trong tâm tưởng suốt một quãng đường đời...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.