Hôm nay,  

Cám ơn Mai

22/11/202308:14:00(Xem: 2999)
Truyện

photo neighbor

Tôi đã chuẩn bị mọi thứ để ngày mai chiên chả giò tham dự tiệc lễ Tạ Ơn với lớp ESL do cô giáo Linda tổ chức. Lớp học ESL gần 20 người, một nhóm người Lào thì hùn tiền nhau order món gà tây nướng lò bán trong chợ, còn lại kẻ thì mang giấy napkin, mang nước ngọt, trái cây, bánh kẹo. Tôi và Mai sẽ mang món chả giò, tôi chiên chả giò cho cả hai đứa luôn.
    Buổi chiều Mai đến nhà tôi, tưởng nàng hỏi thăm về món chả giò nhưng nàng hỏi:
    – Ngày mai bà tính mặc đồ gì?
    Tôi hớn hở khoe:
    – Như mọi hôm khi đi học, tôi có rất nhiều váy áo.
    Mai kêu lên:
    – Tôi biết ngay mà, lúc nào bà cũng mặc đồ nhà thờ, mấy cái váy cổ lỗ sĩ dài thậm thượt tới chân, thời trang từ thời khai phá ra nước Mỹ.
    Tôi mắc cỡ bào chữa:
    – Cổ điển chứ không phải cổ lỗ sĩ nha. Cổ điển cũng có giá trị của nó.
    Những ngày đầu mới đến Mỹ tôi được người ta hướng dẫn đến các nhà thờ xin quần áo cũ và tôi đã chọn ôm về một đống, tha hồ mặc, khỏi tốn tiền mua.
    Mai tiếc rẻ:
    – Mà đồ cũ có đủ loại sao bà không chọn vài kiểu mới mẻ, toàn chọn váy bà già.
    Rồi Mai trịnh trọng:
    – Lễ Tạ Ơn là lễ lớn của người Mỹ. Ngày mai thế nào cả lớp ai cũng diện đẹp mà bà mặc đồ thường là quê lắm đó.
    Sao cái gì Mai cũng biết cũng khôn hơn tôi dù nàng đến Mỹ sớm hơn tôi chỉ vài ba tháng, nhỏ tuổi hơn tôi nhưng Mai luôn “ngang hàng” gọi tôi bằng “Bà” xưng “tôi”.
    – Vậy thì tôi sẽ lục mớ đồ cũ xem có bộ nào đẹp nhất thì mặc.
    – Khỏi cần, tôi có mang cho bà bộ váy nè, bảo đảm bà sẽ mặc vừa.
    Mai lôi ra trong chiếc túi giấy mang theo một bộ váy màu xanh còn mới và khoe:
    – Tôi mua và mặc hồi mới đến Mỹ, không thèm xin đồ cũ như bà đâu.
    Nàng bắt tôi phải thay đồ và thử chiếc váy ngay tại chỗ cho nàng ngắm. Mai khen rối rít:
    – Đẹp lắm, bà với tôi cùng size mà, tôi tặng bà chiếc váy này luôn đó.
    Tôi giật mình ngạc nhiên trước món quà bất ngờ vì ngắm trong gương tôi đã thích chiếc váy này rồi.
    – Cho tôi váy này, thế Mai mặc gì?
    – Dĩ nhiên là tôi có váy khác, cũng màu xanh. Ngày mai hai đứa mình cùng diện váy đồng màu luôn.
    Tôi cảm động:
    – Cám ơn Mai, tôi sẽ giữ gìn cái váy này và xài tới khi nào rách thì thôi.
    Mai chững chạc như chị Hai tôi:
    – Bà đang cao hứng nói thế thôi, mặc vài lần bà sẽ chán và mai này bà có dịp mua sắm quần áo thì bộ váy này nghĩa lý gì.
    Tôi đến Mỹ định cư được vài tháng thì đến thành phố này. Trong thời gian còn đang hưởng trợ cấp tôi tiếp tục học lớp ESL và quen Mai ở đây.
    Mai ra vẻ hiểu biết chỉ dẫn tôi đủ thứ. Phố nhỏ, chợ búa và cư dân người Việt ở xa khoảng 1 giờ xe. Mai mới đậu bằng lái xe mà đã chở tôi đi chợ Việt nam để mua những thực phẩm cần thiết của người Việt như gạo, nước mắm, tôm khô, v.v. rồi Mai chỉ tôi cách làm giá từ đậu xanh hột, một bịch đậu xanh có mấy chục xu mà làm ra mấy rổ giá sống. Tôi muốn nấu canh chua than thở không có bạc hà thì Mai chỉ tôi theo cách của nhà hàng dùng cần tây thay thế cũng ngon. Mai giúp tôi nhiều lắm.
    Trưa thứ năm tôi chiên chả giò xong lo tắm rửa và mặc chiếc váy màu xanh của Mai, nàng đến đón, chở tôi đến lớp. Tôi vừa vui vừa hồi hộp vì đây là buổi tiệc Tạ Ơn đầu tiên của tôi ở Mỹ, Mai cũng thế nhưng nàng hớn hở và tự tin hơn tôi. Đúng như Mai nói từ cô giáo Linda đến các học trò của lớp ESL này ai cũng mặc đồ đẹp đẽ chỉnh tề.
    Vào tiệc mọi người vừa ăn uống vừa trò chuyện, trình độ tiếng Anh như nhau nên nói qua nói lại ai cũng hiểu nhau, cùng vui vẻ. Tôi không biết ăn gà tây nhưng cũng lấy một ít vào dĩa ráng ăn cho hòa đồng với người ta, chủ yếu tôi toàn… ăn chả giò của tôi và uống nước ngọt, nhưng tôi vui nhiều vì đang mặc chiếc váy đẹp.
    Lớp học ESL nằm trong building của trường Vocational Technical School. Sau khóa ESL Mai rủ tôi ghi danh học lớp Nursing Assistant trong trường Vo.tech này, khóa học ngắn hạn, nghề dễ tìm việc làm tại các bệnh viện, viện dưỡng lão.
    Hai đứa lại chăm chỉ đi học như khi còn ở bên lớp ESL. Sau mấy tuần học, thi cái test cuối cùng là mãn khóa và nghỉ chờ thi license. Ngày mãn khóa cô giáo mời cả lớp đi ăn nhà hàng Golden Corral, nhà hàng cách trường chừng 5 phút xe, ngày nào đi học tôi cũng đi qua nhà hàng Golden Corral nên thuộc tên luôn. Mọi người rối rít thu dọn sách vở, vui vì xong kỳ học được thảnh thơi, họ ra xe đến nhà hàng. Mai chở tôi đi, hai đứa cùng hí hửng.
    Lần đầu tiên chúng tôi biết nhà hàng buffet Mỹ là gì, biết thịt bò nướng có các kiểu “rare, medium và well-done”.  Mai và tôi cùng chọn món thịt bò steak nướng chín kỹ rồi đi lấy rau và các thức ăn phụ khác. Hai đứa vừa ăn vừa khen cô giáo người Mỹ tử tế rộng rãi cho mọi người đi ăn nhà hàng và thầm cám ơn cô.
    Ăn xong, tôi ngạc nhiên khi thấy cô bạn Mỹ bên cạnh lấy tiền ra trả. Tôi nói nhỏ với Mai:
    – Sao họ tự trả tiền? Cô giáo bao mình mà…
    Mai cũng ngơ ngác nhìn quanh khắp lượt thấy ai cũng trả tiền cho phần ăn của mình. Nàng liền bình tĩnh:
    – Thì ra cô giáo “mời” đi ăn nhưng ai ăn người nấy trả, bây giờ tôi mới biết điều này như bà.
    Tôi vẫn lấm lét:
    – Nhưng… tôi không mang tiền theo!
    – Tôi có tiền đây. Bà cất bộ mặt ngố của bà đi, tươi cười lên đi, đừng để các bạn biết chúng ta đang bị ”sốc” nặng vì tưởng bở nhé.
    Tôi mừng rỡ vì có Mai cứu bồ và cảm phục thái độ của nàng, vụ này Mai cũng không biết nhưng nàng biết ứng xử. Bài học đầu tiên của tôi và Mai ở Mỹ là người Mỹ “mời” mình đi ăn là phần ai nấy trả, không có cảnh “bao” nhau hay tranh giành nhau trả tiền như người Việt mình.
Tôi và Mai xin làm trong một nursing home, làm cùng ca nên tình bạn càng thêm gần gũi. Có lần hai chúng tôi  chăm sóc một bà già, hai đứa vừa làm vừa nói chuyện bằng tiếng Việt Nam, bà già Mỹ tuổi gần đất xa trời thế mà còn tò mò thều thào hỏi:
    – Hai đứa mày… nói tiếng gì… tao không hiểu.
    Biết là sai, là bất lịch sự khi có người thứ ba mà hai người nói chuyện với nhau bằng một ngôn ngữ khác. Từ đó tôi và Mai không nói chuyện bằng tiếng Việt khi có mặt người Mỹ nữa.
    Cuối năm đó vì lý do riêng gia đình tôi phải dọn đi tiểu bang khác. Mai buồn buồn khi tôi chia tay còn tôi thì thổn thức hứa rằng tôi sẽ giữ mãi chiếc váy Mai cho để mỗi lần mặc tôi sẽ nhớ đến Mai.
    Vài năm sau tại nơi ở mới, bận rộn với cuộc sống mới, với bạn bè mới tôi đã lãng quên chiếc váy màu xanh Mai tặng, tôi đã xếp xó và nó thất lạc nơi nào tôi không biết. Tôi thành kẻ hứa lèo, hứa cuội. Xin lỗi Mai.
   Nhưng Mai ơi, chút tình bạn ngắn ngủi của tôi với Mai, tôi sẽ không bao giờ quên dù giờ đây chúng ta đã mất liên lạc với nhau. Cám ơn Mai đã là người bạn tốt, cho tôi những kỷ niệm vui và đẹp của những ngày đầu chúng ta mới đến Mỹ.
 

–  Nguyễn Thị Thanh Dương

(10/2023)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chị nhớ lại, vào một buổi sáng ngày cuối tháng 1 năm 1973, khi Chị đi lấy bản tin ở bên Macv về cho AP, chị thấy sao hôm nay văn phòng đông thế. Ký giả của AP và cả của NBC News bên cạnh cũng chạy qua chạy lại, Chị nghe ông chánh văn phòng nói: Viêt Nam sắp ngưng bắn rồi, sắp hòa bình rồi…” Văn phòng Associated Press xôn xao, từ ông chánh văn phòng đến các ký giả, nhân viên của AP đều hứng khởi với cái tin “Nóng bỏng” này. Chị thấy các phóng viên của các hãng thông tấn, hãng truyền hình ngoại quốc chạy hối hả sang nhau và chạy qua cả đài phát thanh Quân Đội Việt Nam để cập nhật tin tức viết bài…
Chị đi bằng xe hàng. Là dân Đà Lạt gốc Huế nên chị gọi xe đò là “xe hàng”. Đi xe hàng, tức là xe đò, là xe chở người và cả hàng chứ không chở riêng hàng. Tiếng Việt hay như vậy đó! Đến Gò Công rồi đi xe lam vào Đồng Nguơn. Ấp Đồng Nguơn. Không phải đây là lần đầu tiên chị được thấy cảnh đồng quê. Đồng quê miền nam hầu như đâu đâu cũng giống nhau. Nhưng có đi nhiều mới thấy mỗi nơi có một chút khác. Phải thế không? Hay chính là cảm giác của chị mỗi lần một khác?
Tôi ước mơ có một ngày nào đó, khi thanh bình thật sự trở về trên nước VN, khi chính thể CS hoàn toàn tan rã, khi con người công chính trở lại làm nền tảng trong xã hội mới, chúng ta sẽ trở về, những ngưới bạn từ thời xa xưa, cùng nhau làm lại một bữa tiệc Tất Niên, mời vong linh các thầy, các bạn, các anh em đồng đội đã chết trong khói lửa chinh chiến, trong các biến cố tang thương của đất nước, trong các trại tù, trên biển…cùng nhập tiệc. Kẻ đang sống cùng người thiên cổ bên cạnh nhau hoài niệm đến một miền thùy dương ngọt ngào nhân tính, một ngôi trường thân yêu giàu truyền thống giáo dục và y đức, một thành phố mến yêu thơ mộng. Để nghe những người quá cố tâm sự về cái chết oan khiên của mình. Được như vậy, hương hồn các vị đó sẽ sớm được siêu thoát và vĩnh viễn an nghỉ chốn nghìn thu. Và chúng ta đây giảm khắc khoải đau thương…
Tôi đã có bốn cái Tết trong trại Panatnikhom và Sikiew, Thailand. Tết đầu tiên thật nhiều kỷ niệm và bất ngờ, vì lúc đó chúng tôi vừa nhập trại trong khi còn hơn một tuần nữa là Tết. Tôi và ba cô bạn đi chung chưa kịp gửi thư cho thân nhân ở nước ngoài để ca bài ca “xin tiền”. Ai lo bận bịu đón Tết thì lo, còn chúng tôi thì lo đi mượn tiền để mua vài vật dụng cần thiết như tấm trải nhựa, tre nứa, dây nilon để làm “nhà” (phải “an cư” mới “lập nghiệp” tỵ nạn được chớ).Khoảng một tuần trước Tết, có một nhóm mấy thanh niên đến thăm vì nghe nói chúng tôi là dân Gò Vấp, nên muốn nhận “đồng hương đồng khói”. Họ là những người trẻ như chúng tôi, nên câu chuyện mau chóng trở nên thân mật và rôm rả
Hỏi thăm ông Hai bán hoa lay-ơn gốc Bình Kiến, nhiều người ngơ ngác hỏi nhau. Tôi lại rảo qua thêm mấy vòng chợ hoa, cũng vừa đi tìm ông Hai, cũng vừa ngắm hoa và ngắm những chậu bonsai bày bán cuối năm, cũng tìm lại mình của gần 20 năm trước, năm nào cũng cứ vào những ngày này, tôi theo ba tôi hóng gió đón sương không hề chợp mắt cùng gian hàng cây kiểng rất bề thế của ba ở đây.
Có lẽ những rộn ràng, hân hoan nhất trong năm không phải là "ba ngày tết", mà là những ngày cận tết. Bắt đầu vào ngày 23 tháng chạp, tối đưa ông Táo về trời. Tất cả mọi sinh hoạt đều hướng về việc chuẩn bị để đón một mùa xuân mới, chào đón nguyên đán và mấy ngày xuân trước mặt. Lúc nhỏ là mùi vải thơm của bộ đồ mới, mùi gạo nếp ngâm cho nồi bánh và hương thơm ngào ngạt cho sàng phơi mứt dừa, mứt bí, mứt gừng ngoài sân. Những đêm ngủ gà ngủ gật ngồi canh bên nồi bánh tét cùng với má, với gia đình xúm quanh. Mùi bếp lửa, mùi khói hương, mùi áo mới lan tỏa của tuổi thơ ngan ngát những ngày xa...
Người ta được nuôi lớn không chỉ bằng thức ăn, mà còn ở lời ru, tiếng hát, và những câu chuyện kể. Chú bé cháu của bà thích được bà ôm vác, gối đầu lên vai bà. Có khi bà mở nhạc từ chiếc nôi cho chú nghe thay cho lời hát, chiếc nôi chú bé đã nằm khi mới lọt lòng mẹ. Có khi bà hát. Bà không ru à ơi, nhưng âm điệu dân gian len vào trong từng lời hát. Chú bé mãi rồi ghiền nghe giọng hát của bà.
Lóng rày tôi hay tẩn mẩn viết về những hồi tưởng tuổi thơ, nhất là những côn trùng ngày xa xưa đó như chuồn chuồn, bươm bướm, ve sầu, dế mèn…Nhiều lúc ngồi nghĩ lẩn thẩn: tại sao vậy? Chắc đó là tâm trạng của người tuổi sắp hết đếm số, tiếc nuối những khi còn cắp sách tới trường. Cắp sách tới trường không phải là chuyện vui nhưng tuổi học trò thì vui thật. Lúc nào, khi nào, chỗ nào cũng toàn thấy chuyện vui chơi. Bạn chơi là người nhưng nhiều lúc là những côn trùng quanh quẩn bên người. Một ông bạn mới gặp nhướng mắt hỏi tôi viết về những bạn chơi nhiều hơn hai chân nhưng chưa thấy nhắc tới bạn của ông ấy. Đó là bọ ngựa. Ông này thuộc loại rắn mắt. Tôi không chung tuổi thơ với ông nhưng chắc ông cũng thuộc loại phá làng phá xóm. Ông kể chuyện ăn me chua trước mấy ông lính thổi kèn trong hàng ngũ khiến mấy ông thợ kèn này chảy nước miếng thổi không được. Tôi thuộc loại hiền nên không có bạn không hiền như bọ ngựa. Ông ta thì khoái bọ ngựa.
“Mày có vợ hồi nào vậy?” chưa kịp chào, mẹ đã ném ra câu hỏi bất ngờ. Tôi lặng thinh. Cục nghẹn trong cổ họng. Tiếng mẹ đã khàn nhưng nghe vẫn quen, vẫn gần gũi, nhưng đặm chút ngạc nhiên và thấp thoáng chút phiền muộn. Hệt như lần hỏi tôi mười mấy năm trước rằng Sao con trốn học. Đường dây điện thoại chợt kêu ù ù, như thể có máy bay hay xe vận tải cơ giới hạng nặng chạy qua chỗ mẹ đứng. Cũng có thể tại tai tôi ù. Tôi cũng không chắc lắm. Giọng nói mẹ chìm vào khối tạp âm hỗn độn. Mẹ lặp lại câu hỏi trong tiếng động cơ rì rầm. Rồi tất cả im vắng bất ngờ. “Hở con?” Mẹ nói.
Bê, con trai của Mẹ, đã theo Mẹ đến giảng đường từ thuở còn trong bụng Mẹ. Suốt thời gian đại học của Mẹ, Bê có nhiều đóng góp khác nhau theo từng thời kỳ. Khi Mẹ làm bài kiểm tra môn Đầu Tư và Tài Chính trong lục cá nguyệt đầu tiên, Bê mới ba tháng tuổi. Mẹ nhẩm tính, bài thi một tiếng rưỡi, đi về từ nhà đến trường thêm một tiếng rưỡi. Như vậy, Bê phải xa Mẹ ít nhất ba tiếng đồng hồ. Mẹ biết tính Bê, mỗi hai tiếng đồng hồ Bê oe oe đòi bú sữa Mẹ. Bê xấu đói lắm, đòi mà không được, Bê nhăn nhó um sùm. Ngày hôm đó, dì Thành đến giữ Bê. Dì Thành rất hồi hộp. Dì chưa có em bé, chẳng biết phải làm sao cho đúng ý Bê. Mẹ thi xong, phóng ra xe về nhà. Mẹ bắt đầu sốt ruột. Mẹ xa Bê đã hơn ba tiếng đồng hồ. Giờ này Bê chắc Bê đã thức giấc. Hy vọng Bê chịu khó nhâm nhi món trà thảo dược cho trẻ sơ sinh trong khi chờ Mẹ về. Thời đó chưa có điện thoại di động. Bởi vậy, có lo cũng để bụng, chứ Mẹ chẳng biết làm sao. Mẹ ba chân bốn cẳng chạy ba tầng lầu. Vừa đến cửa đã nghe tiếng Bê khóc ngằn ngặt.
Khi chơi những bản nhạc hay, Khang khóc theo giai điệu. Mước mắt chảy, tay kéo tình xuống lên, thân hình diệu dẻo theo cảm hứng. gần như mê cuồng, không biết mình là ai. Tôi cảm nhận được cái hay xuất thần nhưng không hiểu. Khang nói: -- “Cậu Út biết không, cái hay của âm nhạc làm cho lòng sung sướng nhưng cái đẹp của âm nhạc làm cho hồn cảm động. Khi món quà quá lớn, quá sức yêu, không thể cười, chỉ có thể khóc.” Tôi nghĩ, những lúc như vậy, Khang không chơi đàn, mà múa với hồn oan.
Tôi làm việc giữ xe cho một casino ở ngoại ô Toronto, gọi là parking attendant. Đó là nghề mà thanh niên ít chịu làm, phần vì lương thấp, mức tối thiểu, hồi đó 5 đồng một giờ, nhưng lý do chính là vì nó buồn. Bãi đậu xe nằm dưới hầm tối, không nhìn thấy người qua lại, nếu ở ngoài trời cũng sau lưng nhà cao tầng. Không ai làm chỗ đậu xe ở khung cảnh xinh đẹp, nơi ấy dành cho hàng quán. Đi học ban ngày, tôi làm thêm ban đêm là việc thích hợp, có thể thỉnh thoảng ngồi học bài. Nhân viên trong phiên gác trước tôi là cô gái bằng tuổi hoặc cùng lắm lớn hơn một hai tuổi, nhưng không hiểu sao cô vẫn có thói quen gọi tôi là em và xưng chị.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.