Hôm nay,  

Cám ơn Mai

22/11/202308:14:00(Xem: 2995)
Truyện

photo neighbor

Tôi đã chuẩn bị mọi thứ để ngày mai chiên chả giò tham dự tiệc lễ Tạ Ơn với lớp ESL do cô giáo Linda tổ chức. Lớp học ESL gần 20 người, một nhóm người Lào thì hùn tiền nhau order món gà tây nướng lò bán trong chợ, còn lại kẻ thì mang giấy napkin, mang nước ngọt, trái cây, bánh kẹo. Tôi và Mai sẽ mang món chả giò, tôi chiên chả giò cho cả hai đứa luôn.
    Buổi chiều Mai đến nhà tôi, tưởng nàng hỏi thăm về món chả giò nhưng nàng hỏi:
    – Ngày mai bà tính mặc đồ gì?
    Tôi hớn hở khoe:
    – Như mọi hôm khi đi học, tôi có rất nhiều váy áo.
    Mai kêu lên:
    – Tôi biết ngay mà, lúc nào bà cũng mặc đồ nhà thờ, mấy cái váy cổ lỗ sĩ dài thậm thượt tới chân, thời trang từ thời khai phá ra nước Mỹ.
    Tôi mắc cỡ bào chữa:
    – Cổ điển chứ không phải cổ lỗ sĩ nha. Cổ điển cũng có giá trị của nó.
    Những ngày đầu mới đến Mỹ tôi được người ta hướng dẫn đến các nhà thờ xin quần áo cũ và tôi đã chọn ôm về một đống, tha hồ mặc, khỏi tốn tiền mua.
    Mai tiếc rẻ:
    – Mà đồ cũ có đủ loại sao bà không chọn vài kiểu mới mẻ, toàn chọn váy bà già.
    Rồi Mai trịnh trọng:
    – Lễ Tạ Ơn là lễ lớn của người Mỹ. Ngày mai thế nào cả lớp ai cũng diện đẹp mà bà mặc đồ thường là quê lắm đó.
    Sao cái gì Mai cũng biết cũng khôn hơn tôi dù nàng đến Mỹ sớm hơn tôi chỉ vài ba tháng, nhỏ tuổi hơn tôi nhưng Mai luôn “ngang hàng” gọi tôi bằng “Bà” xưng “tôi”.
    – Vậy thì tôi sẽ lục mớ đồ cũ xem có bộ nào đẹp nhất thì mặc.
    – Khỏi cần, tôi có mang cho bà bộ váy nè, bảo đảm bà sẽ mặc vừa.
    Mai lôi ra trong chiếc túi giấy mang theo một bộ váy màu xanh còn mới và khoe:
    – Tôi mua và mặc hồi mới đến Mỹ, không thèm xin đồ cũ như bà đâu.
    Nàng bắt tôi phải thay đồ và thử chiếc váy ngay tại chỗ cho nàng ngắm. Mai khen rối rít:
    – Đẹp lắm, bà với tôi cùng size mà, tôi tặng bà chiếc váy này luôn đó.
    Tôi giật mình ngạc nhiên trước món quà bất ngờ vì ngắm trong gương tôi đã thích chiếc váy này rồi.
    – Cho tôi váy này, thế Mai mặc gì?
    – Dĩ nhiên là tôi có váy khác, cũng màu xanh. Ngày mai hai đứa mình cùng diện váy đồng màu luôn.
    Tôi cảm động:
    – Cám ơn Mai, tôi sẽ giữ gìn cái váy này và xài tới khi nào rách thì thôi.
    Mai chững chạc như chị Hai tôi:
    – Bà đang cao hứng nói thế thôi, mặc vài lần bà sẽ chán và mai này bà có dịp mua sắm quần áo thì bộ váy này nghĩa lý gì.
    Tôi đến Mỹ định cư được vài tháng thì đến thành phố này. Trong thời gian còn đang hưởng trợ cấp tôi tiếp tục học lớp ESL và quen Mai ở đây.
    Mai ra vẻ hiểu biết chỉ dẫn tôi đủ thứ. Phố nhỏ, chợ búa và cư dân người Việt ở xa khoảng 1 giờ xe. Mai mới đậu bằng lái xe mà đã chở tôi đi chợ Việt nam để mua những thực phẩm cần thiết của người Việt như gạo, nước mắm, tôm khô, v.v. rồi Mai chỉ tôi cách làm giá từ đậu xanh hột, một bịch đậu xanh có mấy chục xu mà làm ra mấy rổ giá sống. Tôi muốn nấu canh chua than thở không có bạc hà thì Mai chỉ tôi theo cách của nhà hàng dùng cần tây thay thế cũng ngon. Mai giúp tôi nhiều lắm.
    Trưa thứ năm tôi chiên chả giò xong lo tắm rửa và mặc chiếc váy màu xanh của Mai, nàng đến đón, chở tôi đến lớp. Tôi vừa vui vừa hồi hộp vì đây là buổi tiệc Tạ Ơn đầu tiên của tôi ở Mỹ, Mai cũng thế nhưng nàng hớn hở và tự tin hơn tôi. Đúng như Mai nói từ cô giáo Linda đến các học trò của lớp ESL này ai cũng mặc đồ đẹp đẽ chỉnh tề.
    Vào tiệc mọi người vừa ăn uống vừa trò chuyện, trình độ tiếng Anh như nhau nên nói qua nói lại ai cũng hiểu nhau, cùng vui vẻ. Tôi không biết ăn gà tây nhưng cũng lấy một ít vào dĩa ráng ăn cho hòa đồng với người ta, chủ yếu tôi toàn… ăn chả giò của tôi và uống nước ngọt, nhưng tôi vui nhiều vì đang mặc chiếc váy đẹp.
    Lớp học ESL nằm trong building của trường Vocational Technical School. Sau khóa ESL Mai rủ tôi ghi danh học lớp Nursing Assistant trong trường Vo.tech này, khóa học ngắn hạn, nghề dễ tìm việc làm tại các bệnh viện, viện dưỡng lão.
    Hai đứa lại chăm chỉ đi học như khi còn ở bên lớp ESL. Sau mấy tuần học, thi cái test cuối cùng là mãn khóa và nghỉ chờ thi license. Ngày mãn khóa cô giáo mời cả lớp đi ăn nhà hàng Golden Corral, nhà hàng cách trường chừng 5 phút xe, ngày nào đi học tôi cũng đi qua nhà hàng Golden Corral nên thuộc tên luôn. Mọi người rối rít thu dọn sách vở, vui vì xong kỳ học được thảnh thơi, họ ra xe đến nhà hàng. Mai chở tôi đi, hai đứa cùng hí hửng.
    Lần đầu tiên chúng tôi biết nhà hàng buffet Mỹ là gì, biết thịt bò nướng có các kiểu “rare, medium và well-done”.  Mai và tôi cùng chọn món thịt bò steak nướng chín kỹ rồi đi lấy rau và các thức ăn phụ khác. Hai đứa vừa ăn vừa khen cô giáo người Mỹ tử tế rộng rãi cho mọi người đi ăn nhà hàng và thầm cám ơn cô.
    Ăn xong, tôi ngạc nhiên khi thấy cô bạn Mỹ bên cạnh lấy tiền ra trả. Tôi nói nhỏ với Mai:
    – Sao họ tự trả tiền? Cô giáo bao mình mà…
    Mai cũng ngơ ngác nhìn quanh khắp lượt thấy ai cũng trả tiền cho phần ăn của mình. Nàng liền bình tĩnh:
    – Thì ra cô giáo “mời” đi ăn nhưng ai ăn người nấy trả, bây giờ tôi mới biết điều này như bà.
    Tôi vẫn lấm lét:
    – Nhưng… tôi không mang tiền theo!
    – Tôi có tiền đây. Bà cất bộ mặt ngố của bà đi, tươi cười lên đi, đừng để các bạn biết chúng ta đang bị ”sốc” nặng vì tưởng bở nhé.
    Tôi mừng rỡ vì có Mai cứu bồ và cảm phục thái độ của nàng, vụ này Mai cũng không biết nhưng nàng biết ứng xử. Bài học đầu tiên của tôi và Mai ở Mỹ là người Mỹ “mời” mình đi ăn là phần ai nấy trả, không có cảnh “bao” nhau hay tranh giành nhau trả tiền như người Việt mình.
Tôi và Mai xin làm trong một nursing home, làm cùng ca nên tình bạn càng thêm gần gũi. Có lần hai chúng tôi  chăm sóc một bà già, hai đứa vừa làm vừa nói chuyện bằng tiếng Việt Nam, bà già Mỹ tuổi gần đất xa trời thế mà còn tò mò thều thào hỏi:
    – Hai đứa mày… nói tiếng gì… tao không hiểu.
    Biết là sai, là bất lịch sự khi có người thứ ba mà hai người nói chuyện với nhau bằng một ngôn ngữ khác. Từ đó tôi và Mai không nói chuyện bằng tiếng Việt khi có mặt người Mỹ nữa.
    Cuối năm đó vì lý do riêng gia đình tôi phải dọn đi tiểu bang khác. Mai buồn buồn khi tôi chia tay còn tôi thì thổn thức hứa rằng tôi sẽ giữ mãi chiếc váy Mai cho để mỗi lần mặc tôi sẽ nhớ đến Mai.
    Vài năm sau tại nơi ở mới, bận rộn với cuộc sống mới, với bạn bè mới tôi đã lãng quên chiếc váy màu xanh Mai tặng, tôi đã xếp xó và nó thất lạc nơi nào tôi không biết. Tôi thành kẻ hứa lèo, hứa cuội. Xin lỗi Mai.
   Nhưng Mai ơi, chút tình bạn ngắn ngủi của tôi với Mai, tôi sẽ không bao giờ quên dù giờ đây chúng ta đã mất liên lạc với nhau. Cám ơn Mai đã là người bạn tốt, cho tôi những kỷ niệm vui và đẹp của những ngày đầu chúng ta mới đến Mỹ.
 

–  Nguyễn Thị Thanh Dương

(10/2023)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bây giờ trời đã tối, nhiều người đi ngủ sớm. Bọn trẻ học bài dưới bóng ngọn đèn dầu ở ngoại ô, ngọn đèn đường gần bờ sông. Trước hàng rào kẽm gai, một người lính mang súng đi đi lại lại, một đôi tình nhân đi chơi về muộn. Ngọn đèn hỏa châu sáng bừng góc trời một lát rồi tắt. Người yêu quê hương đã đi ra khỏi mảnh đất của những hận thù dai dẳng mà vẫn muốn trở về. Người nông dân muốn cày lại thửa ruộng của mình. Người thợ sửa đồng hồ muốn ngồi lại cái ghế vải nhỏ thấp của mình sau tủ kiếng bày đồng hồ cũ và mới. Lò bánh mì chiếu sáng nhấp nhô bóng những đứa trẻ bán bánh mì đứng trước cửa sổ với bao tải lớn đựng bánh nóng mới ra lò. Con chim về ngủ muộn biến mất trong bụi cây chỗ anh đứng.
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.