Hôm nay,  

Con Đường

03/12/202309:29:00(Xem: 2730)
Tưởng niệm Nguyễn Đình Toàn

photo by Nguyễn Bá Khanh
Nhà văn Nguyễn Đình Toàn (Ảnh Nguyễn Bá Khanh).

(Gửi Nguyễn Bá Khanh, một ngày không thể quên.)

 

Cho đến lúc này, tôi tự hỏi có bao nhiêu con đường mình đã đi qua suốt những năm tháng có mặt trên đời? Nhiều lắm, những con đường quên lãng mất hút với thời gian. Và cũng có những con đường đã vạn lý xa, nhưng trăm năm đằm đắm nhớ nhung nếu như được sống trọn hết một kiếp người.
    Tôi đã bước trên con đường đó vào một buổi sáng giữa tháng 10.
Baylor Drive, những tàn cây palmier jupon cao ngất, ngẩng mặt với trời xanh. Những cành cọ rũ xuống buồn bã vì trời không một gợn gió, nhưng lòng tôi như Tết, háo hức xuân tươi.
Như, " khi em về trời xanh và gió mát / con đường mòn thơm lá mục quê hương" (1)
    Nắng ấm loang trên những bờ tường của từng ngôi nhà nhìn từa tựa như nhau. Có thể đây là nơi cư ngụ của những cư dân lớn tuổi nên tất cả chìm trong êm ả, tĩnh lặng, không một bóng người qua lại. Trong thứ không gian trong vắt này, tôi nghĩ, nếu như có một chiếc lá lìa cành, tôi cũng có thể nghe rõ được âm thanh rơi rụng của nó. Thực ra, thứ âm thanh này tôi đã nghe, nhưng từ một giọng nói. Tôi đang nhớ lại và mường tượng ra nó, dù bây giờ, đất trời chưa hẳn vào thu, hoặc không có mùa thu nơi đây. Cỏ vẫn xanh ngát nằm khép nép bên vệ đường, cây lá vươn mình trên những vuông sân.
    Đường dẫn vào ngõ. Ngõ hẹp, nhưng bên mỗi hiên nhà vẫn có những khoảng đất trồng đầy chuối, dù chỉ là những loại chuối kiểng. Những thân xanh bóng mượt và những tàu lá khiến tôi nghĩ đến một "quê hương thu nhỏ" (2)
    Không phải là những con đường ngập đầy lá rụng của một Đà Lạt quá khứ mù sương, hay một lối đi quanh co, hai bên bờ đất viền quanh những bụi dã quỳ rực nắng. Cũng chẳng là con đường tỉnh lỵ vắng vẻ sớm khuya có những bến phà đưa người từ xã này này sang huyện nọ. Những vùng đất tôi đã đi qua, nhìn thấy… theo một cách nào đó.
    Tất cả đều xa lạ. Nhưng tôi biết, tôi sẽ gặp lại một nơi thân thiết của một thời. Nơi chốn đã cất giữ dùm tôi những tháng ngày tươi đẹp nhất đời mình.
    Qua những bức tường màu của một thứ nâu-cam dang dở, tôi bước lên những nấc thang.
Tôi đã tìm thấy sau cánh cửa ấy, một quê hương thu nhỏ. Quê hương của những người Việt ly hương có di ảnh, bàn thờ người quá cố. Có nồi cơm điện, ấm trà, phích nước… Nhưng quê hương này còn có áo mơ phai bên những đám cháy cùng với tro than.
    Và tôi thấy nó rõ ràng hơn, nó ở đấy. Đường cũ kia rồi, nơi của những sáng Sài Gòn, sân trường, lớp học. Đường xưa của những đêm xao xuyến từng giấc ngủ ngoan của bao thiếu nữ. Đường đêm chiến tranh mà dường như người ta không còn quan tâm đến ánh hỏa châu ngoài trời, hay tiếng súng đì đùng từ xa vọng lại. Nhìn nó, như một phế tích buồn hiu. Có gặp lại người yêu dấu cũ, cảm xúc của tôi cũng chỉ như thế. Bởi chính nó, con đường ấy là tình yêu, là tình đầu. Một mối tình không có người yêu.
    Chỉ là một cuốn sách được viết ra từ hơn nửa thế kỷ. Là một trong những tác phẩm lấp lánh như sao giữa một bầu trời văn nghệ sáng rực thời vàng son của đất nước, với những văn nghệ sĩ uyên bác, tài hoa. Những ngôi sao tưởng đã lịm tắt, chìm chết cùng với bầu trời đã vẫn đục u ám, nhưng tất cả còn sống mãi trong lòng hàng hàng, triệu triệu người yêu nghệ thuật mà không gì có thể làm lu mờ.
    Tôi ôm lấy nó, tôi sờ chạm mân mê từng vết màu đã ố với thời gian. Tôi hít thở, tìm lại thứ không khí của một khung trời cũ. Tôi tìm thấy tôi.
    Người dẫn tôi đến "con đường" ngày xưa ấy đang ngồi trước mặt tôi. Lẽ ra tôi đã gặp ông từ năm trước. Nhưng một người thân quen của ông nói với tôi rằng, có thể ông sẽ không còn nhớ ai là ai nữa. Tôi đâu phải là một trong những "ai" này, để buồn khi ông không còn nhớ đến mình. Tôi muốn có một tập thơ ông vừa mới phát hành mà tôi không còn tìm thấy ở tiệm sách. Tôi muốn gặp một người, một giọng nói, những đoạn văn, lời thơ, tiếng nhạc.
    Lần đó, tôi đã không gặp ông.
    May mà còn có lần này.
    Người bạn trẻ đi cùng với tôi đã rất vui khi ông hỏi đến những người thân trong gia đình anh, mà anh nghĩ có lẽ ông đã quên. Tôi vui vì ánh mắt thân thiện của ông. Ánh mắt khiến tôi bớt e dè ngần ngại.
    Lúc ấy, tôi không nhìn rõ ông như thế nào. Ông đau ốm, bệnh hoạn ra sao? Tôi chỉ nghĩ đến những cuốn sách. Tiểu thyết của ông như lụa là kỳ ảo phủ kín người tôi, tôi không thể thoát ra được. Tôi hỏi đến người con gái có vết nám trên mặt, Lãm và Thục, những nhân vật của ông. Tôi hỏi đến Phụng và Sơn trong Đồng Cỏ. Hai người ấy xem chừng họ đã như thế với nhau. Nhưng đọc đi đọc lại tôi vẫn chưa tìm thấy những con chữ nào nói rõ ra điều ấy…Tôi nhớ nụ cười rất trẻ của ông, ông nói: đôi khi chỉ cần hai chữ thôi, đủ để nói lên "điều ấy".
    Khi tôi về, nhìn lại những bức hình mà người bạn Nhiếp Ảnh đã chụp kỷ niệm cuộc gặp gỡ này. Những bức ảnh với thứ ánh sáng, bối cảnh đầy nghệ thuật giữa cái ngẩng lên, nhìn xuống của chúng tôi. Dĩ nhiên là tôi đã sung sướng, rung động, không cách gì tả được. Cho đến khi, người thân của ông nhắc nhở, khuyên tôi hãy cất cho riêng tôi những tấm hình vì nhìn ông tiều tụy quá! Tôi mới nhận ra, Nguyễn Đình Toàn cúi xuống với ống pipe trong tay, rạng rỡ những trầm tư trong vũng tối vây quanh, Nguyễn Đình Toàn ngẩng mặt nhìn bầu trời mây xám, có những rặng cây gầy guộc khẳng khiu. Thứ chân dung đậm nét ca từ "lá thốt lên lời cây, gió lú đưa đường mây" 3. . Đó là cả một tận tụy, tìm tòi của Nguyễn Bá Khanh, người đã chụp bắt được hình ảnh của một tình nhân đứng giữa trời không, khóc mộng thiên đường… Nguyễn Đình Toàn ngày ấy, và bây giờ đã không còn như thế nữa. Nhưng cách nào, với tôi, bất cứ hình ảnh nào của ông cũng đẹp. Cái đẹp thoát ra từ một tâm hồn, một văn nghệ sĩ tài hoa lẫy lừng, mà có lẽ chưa ai có thể thay thế.
    Trong tiểu thuyết của ông, dù nhân vật là nam hay nữ, thỉnh thoảng ta đọc được những câu của họ nói về quê hương, về những nơi chốn… và ông đã dùng hai chữ "tư hương" tuyệt đẹp khi diễn tả tình cảm này. Nhưng với tôi, tiếng kêu mộc mạc "tôi cố bám lấy đất nước tôi" qua những nốt nhạc là tiếng nói xé lòng, đau đớn nhất.
    Ông đã cố bám lấy đất nước của mình nhưng vô vọng. Ông đã lìa xa tổ quốc và nhìn đâu cũng thấy quê hương. Những quê hương được ông thu nhỏ lại, nhưng bây giờ ông cũng đành bỏ tất cả mà đi.
    Con đường ông dẫn tôi đi, đưa tôi vào những vùng hoa thơm, cỏ lạ của văn chương đầy mê hoặc. Tôi vẫn đi mãi cho đến bây giờ. Nhưng có một điều tôi chưa nói với ông, đọc những trang sách của ông rất nhiều lần, tôi nghĩ mình không nên viết nữa.
    Cố thi sĩ Du Tử Lê cho rằng Nguyễn Đình Toàn là "người tình không chân dung" của rất nhiều nữ thính giả. Điều này không sai. Bao nhiêu người nữ như tôi đã hạnh phúc với những đêm khuya, nghe tiếng nói ấm áp và thổn thức cùng ông…
    "Chim đau đã quên mùa, hoa sầu đã quên nở. Nhưng những ngày tháng êm đềm của chúng ta xưa vẫn không ngừng làm cho lòng anh thổn thức. Anh như đứa trẻ, ngắt bông hoa cầm trên tay và tưởng tượng đó là trái tim mình. Ôi những hồn hoa, nở bằng nước mắt đau thương, nhỏ trên hạnh phúc".
    Người tình không chân dung, tôi đã âm thầm tìm kiếm, theo dấu ông đằng đẵng hơn nửa thế kỷ dài. Bây giờ tôi đã gặp được dung nhan của tình yêu ấy. Nhưng gặp để chia lìa. 20/10/2023 và 28/11/2023. Chỉ được ba mươi tám ngày ngắn ngủi và mãi mãi, không còn một hạnh ngộ nào đến nữa.
    Tôi ôm hai tập tiểu thuyết và một tập thơ có chữ ký từ những ngón tay run.
     Nơi ngưỡng cửa, những ngón tay run rẩy nhưng ấm áp đã cầm lấy tay tôi phút chia tay và đôi mắt là cả một vùng cô đơn. Cái cô đơn ánh lên, vọng về những tiếng nói, âm thanh trên làn sóng điện của một Sài Gòn thương, tiếc.
    - Ráng thu xếp, đến chơi với tôi một hôm nữa nhé!
    Vậy mà tôi đã không đến được. Lòng tôi đầy những dày vò hối tiếc.
    Tôi đã phụ tình ông.
     Người tình, người yêu, nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ. Con người tài hoa tột đỉnh ấy đã bỏ đi. Tôi đứng lại, ngậm ngùi nhớ mãi một con đường như thuở đầu bước đến.
 

-- Đặng Mai Lan

(Paris 3/12/2023)

 

1- Khi em về (thơ)

2- Quê hương thu nhỏ (nhạc)

3- Tình khúc thứ nhất (Nguyễn Đình Toàn- Vũ Thành An)

* Những chữ in đậm là tựa những tác phẩm của NĐT.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bây giờ trời đã tối, nhiều người đi ngủ sớm. Bọn trẻ học bài dưới bóng ngọn đèn dầu ở ngoại ô, ngọn đèn đường gần bờ sông. Trước hàng rào kẽm gai, một người lính mang súng đi đi lại lại, một đôi tình nhân đi chơi về muộn. Ngọn đèn hỏa châu sáng bừng góc trời một lát rồi tắt. Người yêu quê hương đã đi ra khỏi mảnh đất của những hận thù dai dẳng mà vẫn muốn trở về. Người nông dân muốn cày lại thửa ruộng của mình. Người thợ sửa đồng hồ muốn ngồi lại cái ghế vải nhỏ thấp của mình sau tủ kiếng bày đồng hồ cũ và mới. Lò bánh mì chiếu sáng nhấp nhô bóng những đứa trẻ bán bánh mì đứng trước cửa sổ với bao tải lớn đựng bánh nóng mới ra lò. Con chim về ngủ muộn biến mất trong bụi cây chỗ anh đứng.
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.