Hôm nay,  

Lãng đãng... cuối năm...

12/16/202310:04:00(View: 2222)
Tùy bút

IMG_8675

Canada năm nay kỳ thiệt à nghen!  Đó là tôi đang nói đến chuyện thời tiết, mà cụ thể là chuyện “tuyết rơi mùa Đông”, bởi nói đến Canada mà không nói chuyện nàng tuyết thì còn biết nói chuyện gì.
    Bắt đầu từ giữa Tháng 10, ai ai cũng chuẩn bị tinh thần đón những bông tuyết “lạc quẻ” nôn nóng xuống gian trần, mà chuyện đó rất ư là bình thường, chả có gì lạ ở xứ này. Tôi nhớ nhiều năm, mùa Halloween tuyết  phủ đầy đường, tội cho lũ nhỏ đi xin kẹo Trick Or Treat phải mặc đồ dầy cộm, chân mang boots, đầu đội mũ len, choàng thêm bộ costume phục phịch nặng nề. Vậy mà năm nay lạ thiệt, đêm Halloween trời khô ráo, gió lạnh hiu hiu, ôi thôi, xóm tôi tưng bừng ngày Hội của lũ trẻ, người lớn cũng vui lây, mừng cho chúng được một năm vui chơi thoải mái đến khuya mà không sợ bị cảm lạnh.
    Tuần đầu tháng 11, gia đình tôi chuẩn bị hành lý bay qua Oklahoma và Texas hai tuần ăn cưới đứa cháu ruột. Cũng như mọi lần qua Mỹ mùa cuối năm, chúng tôi mặc đồ lạnh mùa đông để ra phi trường, phòng hờ đột nhiên ông trời nổi hứng đem tuyết xuống chơi, khi qua tới phi trường bên đó thì cuốn gói mớ đồ lạnh vào hành lý, chờ ngày ra phi trường trở về Canada lại tròng vào, thiệt là lỉnh kỉnh, nhưng còn hơn là để bị lạnh, về nhà cảm cúm còn mệt hơn.
    Vậy mà năm nay, mặc đồ dầy cui ra phi trường bỗng trở thành lạc lõng vì thời tiết quá đẹp, rồi sau hai tuần lễ ở Oklahoma, Texas, chúng tôi bay về Edmonton trời cũng còn trong veo, chút gió lạnh, tuyệt nhiên không có một hột tuyết nào.
    Rút kinh nghiệm, một tuần sau đó, dịp Thanksgiving Mỹ, tôi lại khăn gói lên đường bay qua Nam California dự lễ phát giải Viết Về Nước Mỹ 2023 . Ui chao, sung sướng thay, đi chơi mùa lạnh mà được diện áo đầm, chiếc áo khoác nhẹ, mang giày cao gót, tung tăng từ phi trường này qua phi trường kia, không vướng bận giày boots, áo choàng nặng nề, một cơ hội lâu lâu mới có.
    Lãnh giải xong, tôi trở về nhà, ông xã ra đón tại phi trường, tôi lại nhắc đến chuyện muôn thuở của xứ Cà ( hổng phải Cà... Chua mà là tên gọi tắt của Cà Na Đa do... tôi đặt):
    –  Anh ơi, sao trời đất vẫn sạch boong thế này, nắng vẫn vương nhè nhẹ trong gió lạnh thế này, chả lẽ Giáng Sinh năm nay sẽ là một Green Christmas?
    –  Ừa, ai cũng nói năm nay thời tiết bất thường.
    Tôi lại chuyển qua đề tài quen thuộc hàng năm của gia đình tôi, là chuyện mướn người xúc tuyết:
    – Vậy cả tháng nay cậu xúc tuyết chẳng làm gì mà mình vẫn phải trả tiền hen?
Chồng tôi vẫn vô tư:
    – Dự báo thời tiết là đến giữa tháng 12 vẫn chưa có tuyết nặng luôn nhe.
    – Trời! Vậy cậu ta ... lời cả gần hai tháng ...
    – Mà em mâu thuẫn nhỉ, khi cậu ta rảnh rang thì em xót của xót tiền, mà hễ qua tháng 1 tháng 2 cao điểm tuyết mù mịt dầy đặc, khi cậu ta nước mũi lòng thòng hì hục đứng xúc tuyết, thở xì ra khói, trong khi em ở trong nhà ấm áp uống trà, thì em lại áy náy cắn rứt lương tâm, muốn đưa thêm tiền cho cậu ta! Vậy là sao... là sao???
    Tôi cụt hứng, hờn mát:
    – Từ nay em sẽ chừa cái tính ủy mị cải lương đó, sẽ lạnh lùng phớt tỉnh Ăng Lê, cứ theo hợp đồng mà làm, được chưa?
      Ôi, lòng người phức tạp, tôi còn không hiểu tôi nữa là, hèn chị ông nhạc sĩ nào đó tên Thanh Tùng có mấy câu khá chí lý: “Cuộc đời lạ lùng. Cuộc đời ước mơ những điều viễn vông. Lòng người lạ lùng. Lòng hay thương nhớ những điều hư không”.
    Nói nào xa, tôi vừa đến nhà thờ, thì đầu câu chuyện trong nhóm ca đoàn, cũng là chuyện thời tiết. Chị Nở, lớn tuổi nhất trong ca đoàn, thường hay tâm tình với tôi, bữa nay cũng bày đặt nhớ tuyết:
    – Ui, năm nay tuyết trốn đi đâu hết vậy nè!?
    Đang còn ấm ức hôm qua bị ông xã “chỉnh” cái vụ cậu xúc tuyết, tôi trút hết lên chị Nở:
    – Ủa, năm ngoái tuyết nhiều thì chị rên rỉ, than van, còn năm nay tuyết chưa rơi thì chị phải vui mừng chứ. Tóm lại là chị muốn gì?
    Biết tôi đang lên cơn “sáng nắng chiều mưa”, chị cười để xoa dịu tôi:
    – Thì dù sao tụi mình cũng là dân Cà Na Điên, mùa đông mà thiếu tuyết cũng thấy sao sao á! Nói thiệt lòng, nếu được ước ao, thì chị chỉ mong có tuyết trong Tháng 12 thôi, để mình cảm nhận cái lạnh lẽo của mùa Noel, có “ đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời”, có hang đá phủ tuyết trắng xóa, đẹp như những tấm thiệp Giáng Sinh người ta vẫn gửi cho nhau. Ở nơi xứ nóng người ta còn làm bông tuyết giả, vậy tai sao ở xứ tuyết này mình không trông chờ tuyết, phải không cưng!?
    Tôi thấy chị Nở nói cũng ... hổng sai. Nhớ thời còn trẻ, tháng 12 se lạnh, tôi theo bè bạn dạo phố Nhà Thờ Đức Bà Sài Gòn say sưa ngắm những tấm thiệp Noel muôn màu, có cây thông đèn treo lấp lánh, có những ngôi nhà tuyết phủ mênh mông... mà thầm ước mơ được sống giữa khung cảnh đẹp như thần tiên ấy. Bây giờ thì chúng tôi toại nguyện rồi đấy. Mỗi mùa cuối năm, các khu phố, các ngôi nhà trang trí rực rỡ, đúng như những hình ảnh trên những tấm thiệp khao khát khi xưa. Nhưng đời không như là ... thiệp. Nhìn thì đẹp đấy, chụp hình thì đẹp đấy, nhưng sau đó phải xúc tuyết, phải đi làm trên những con đường trơn trợt, không cẩn thận là bị té u đầu bể trán chớ chẳng chơi.
    Mà sự thật là dân Cà ở đây lại khoái tuyết mùa Giáng Sinh. Cách đây gần chục năm, trời Edmonton cũng chỉ lạnh khô ráo suốt từ Tháng 11 qua tháng 12, khiến dân tình xôn xao lo lắng. Đài truyền hình địa phương có mục bản tin buổi sáng, hai xướng ngôn viên ngồi “tám” tào lao, tại sao năm nay chưa thấy tuyết, rồi mở đường dây nóng cho thiên hạ gọi phone vào phát biểu cảm tưởng. Cha chả, bà con ào ào hưởng ứng, nào là Giáng Sinh mà không có tuyết thì còn gì là Giáng Sinh, nào là mất hứng nếu là Green Christmas, nào là niềm vui đi shopping dưới trời tuyết rồi uống ly hot chocolate mới thú vị, nào là mùa holidays đi skiing đi skating mà hổng đủ tuyết thì làm sao chơi, nào là... đủ thứ trên đời, thiếu điều họ muốn rủ nhau kéo nhau... lên trời kiện cáo Thiên Đình phải trả tuyết lại cho xứ Cà! (Nhưng trong số những người gọi phone tham gia chiến dịch “No Green Xmas” hổng có dân da màu nhập cư , vì tôi tin chắc rằng dân nhập cư chẳng ai mặn mà với nàng tuyết cho lắm).
    Ở chỗ tôi làm việc là một Retirement Home, tôi hay nói chuyện với một vài ông bà già thân thiết. Hôm nọ, biết tôi sắp bay qua California, bà Maria, một bà da trắng, nói với tôi:
    – Ôi, California đẹp lắm, tôi có một căn nhà vùng ngoại ô San Francisco, hàng năm gia đình vợ chồng con cái chúng tôi thay phiên nhau qua đó nghỉ hè. Nhưng đã lâu sau khi chồng tôi mất, tôi vào Retirement Home này, con cái cũng bận rộn, chẳng ai muốn qua đó nữa, nên căn nhà đó hiện nay đang cho mướn.
    Tôi thắc mắc:
    – Vậy sao ông bà từ thời đó không qua Mỹ sinh sống cho ấm áp, ở bên đây chi cho lạnh?
    – No way!! Tôi là dân Cà chính hiệu, tôi yêu đất nước Cà này, tôi yêu khí hậu bốn mùa nơi đây, nhất là mùa Giáng Sinh tuyệt vời, đi đâu thì đi chớ tui không bao giờ đi khỏi xứ Cà mùa tuyết rơi.
    Thôi thì, ở đâu quen đó, mỗi người có một lý do để yêu hay không yêu mùa đông xứ Cà. Ngay cả chị Nở ca đoàn tôi đây, dân mũi tẹt da vàng, ăn nước mắm cả đời, mà còn đòi phải có tuyết mùa Noel nữa kìa.
    Khi tôi đang viết những dòng chữ này, ngoài trời dù lạnh nhưng rực nắng, trên đường phố chỉ là một lớp tuyết mỏng của một đêm khuya nào đó tuyết bay bay, chứ không như mọi năm tuyết ụ một đống đầy đường, cao ít nhất từ đầu gối trở lên.
    Ôi, biết đâu lại là một “green Xmas” đang đến thì sao? Thế thì các nữ ca viên ca đoàn sẽ sung sướng được diện áo dài thướt tha ngay từ nhà (khỏi phải bỏ vào giỏ xách, đến nhà thờ mới được thay như những năm trước). Vậy cũng hay, được đi lễ đón Chúa chào đời trong đêm lạnh khô ráo, như những đêm thánh vô cùng năm xưa trên quê hương Việt Nam.
    Mà nếu đến lúc đó, ông trời lại đổi ý, làm tuyết giăng trắng xóa cho thêm phần long lanh, lãng mạn, rét mướt, đúng kiểu White Xmas như nhiều người mong ước thì tôi cũng sẽ chẳng than phiền gì.
    Mà than cũng có được đâu nà!!

 

–  Kim Loan

Edmonton, Tháng 12/2023

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Bây giờ trời đã tối, nhiều người đi ngủ sớm. Bọn trẻ học bài dưới bóng ngọn đèn dầu ở ngoại ô, ngọn đèn đường gần bờ sông. Trước hàng rào kẽm gai, một người lính mang súng đi đi lại lại, một đôi tình nhân đi chơi về muộn. Ngọn đèn hỏa châu sáng bừng góc trời một lát rồi tắt. Người yêu quê hương đã đi ra khỏi mảnh đất của những hận thù dai dẳng mà vẫn muốn trở về. Người nông dân muốn cày lại thửa ruộng của mình. Người thợ sửa đồng hồ muốn ngồi lại cái ghế vải nhỏ thấp của mình sau tủ kiếng bày đồng hồ cũ và mới. Lò bánh mì chiếu sáng nhấp nhô bóng những đứa trẻ bán bánh mì đứng trước cửa sổ với bao tải lớn đựng bánh nóng mới ra lò. Con chim về ngủ muộn biến mất trong bụi cây chỗ anh đứng.
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.