Hôm nay,  

Mùa Vọng

19/12/202313:28:00(Xem: 2466)
Truyện
nhatho thanhlinh


 

« Cùng nhau quỳ dưới chân Chúa cao sang »

 

Sau ngày kiếp nạn 30-04-1975 thì mẹ tôi vẫn còn một người bạn thân, ở gần, vì ở cùng xóm, xóm Hoàng Diệu. Đó là bác Mão. Bác buôn bán rất giỏi, tôi chưa thấy ai tháo vát xoay sở trong mọi hoàn cảnh đổi thay mà hay như bác.
    Trước ngày mất nước, bác làm cho hãng Shell, sau khi giải thể, bàn giao cho cộng sản, bác về nhà nghỉ ngơi ít ngày, rồi bác đắp ngay một cái lò nướng bánh mì kiên cố trong sân nhà. Phải nói là nhà bác rất khang trang với một cái sân rộng, diện tích lối gần 250m² bác nói ngồi ôm cái buồn chỉ buồn thêm, nên bác mượn một công thợ rồi cùng với người thợ xây làm bánh mì. Ơ hơ thì sẵn nhà nước không có gạo, mà bán toàn bột mì, thì ta làm bánh mì, bán và ăn luôn, giờ ta biến thành tây, bác cứ nói vui vui như vậy.
    Bác có năm cô con gái, bác bảo ngũ long công chúa, nên chúa cho bác ăn nên làm ra theo thời. Ba chị lớn giúp bác rất nhiều việc, từ việc thu dọn nhà, cơm nước, đến việc sản xuất bánh mì. Hai đứa sau cùng trạc tuổi chị em tôi, còn cùng nhau đi học lớp 6, lớp 7 trường phổ thông cấp II gần nhà. Chúng tôi thường sang nhà bác chơi luôn. Gọi là sang chơi, chứ chúng tôi cũng phụ bác thu xếp sân, nhất là kiểm đếm bánh mì ra lò.
    Trước cổng nhà, bác bầy một cái tủ kính nhỏ, đã nói là bác khéo tay lắm, trong tủ kính bán bánh mì đó, bác bán bánh mì kẹp thịt đỏ, xá xíu, pâté gan và đồ chua, tất cả là do hai bàn tay thiện nghệ của bác sáng tạo… và bán rất đắt hàng, bán rẻ mà.
    Mỗi ngày, từ 5 giớ sáng tinh mơ, chuông nhà thờ Thánh Tâm thong dong đổ, mời gọi giáo dân đi lễ, là bác Mão đã cong lưng đạp xe đạp mang bánh ra nhà thờ, bác giao cho ông quản Bích bán hai giỏ bánh mì đầy. Tiền bán thu được, thì bác nói ông quản giữ lấy mua đèn cầy, hoa, nến lớn, nhỏ và trả tiền điện… mọi thứ lặt vặt cần cho giáo đường. Loại bánh này thì nhào bột, bác chỉ chúng tôi nắm những vắt bột nhỏ, nở thành bánh mì con cóc, cho tiện bán, bột này bác nhào kỹ và trộn thêm chút đường vàng và vani cho thơm. Còn bánh mì để bác trước nhà và bánh mì tổ bác làm lớn gấp hai lần và dài gọi như là bánh baguette. Nói vậy chớ bánh baguette lúc ra lò cũng thơm đáo để, có lẽ vì mùi vani và mùi lá dứa lót lò còn sót lại từ những đợt nướng bánh trước.
    Bác Mão theo đạo công giáo, rất thuần thành, yêu kính và sống theo ý chúa và đức mẹ Maria, bác, dù bận tới đâu, cũng không bỏ qua tuần thánh nào mà không đi ngắm. Bác lấy chồng theo đạo Phật, đúng hơn là đạo ông bà, điều này không quan trọng, vì bác Mão rất đạo đức và nể trọng mọi đức tin. Khi chồng bác mất, bác trang trọng lập một bàn thờ riêng cho bác Doãn, chồng bác. Trên bàn thờ chồng, trước tấm ảnh phóng lớn của bác Doãn mặc quân phục Việt Nam Cộng Hòa rất uy nghi, bác để một bình hoa sen và một lư hương nhỏ bằng đồng sáng loáng, mỗi lần vào thắp nhang cho chồng, bác lại tần ngần đứng lại, lấy khăn sạch lau lau chùi chùi nhiều lần, đến độ cái lư hương sáng loáng soi gương được.
    Thảng hoặc, có buổi chiều nào thu xếp xong việc buôn buôn bán bán, bác lại hâm nóng một ít bánh mì còn dư trong ngày, xào tí thịt vụn với mỡ hành, dồn vô bánh, để sẵn đó, mấy người công an khu vực có tới hỏi mua, bác chỉ tặng họ mà không lấy tiền, họ hay đi kiểm tra hộ khẩu mỗi tối, nếu họ có thắc mắc, bác nói là, các cháu đã đủ ăn trong ngày, nên bác biếu. Khi nào mà công an khu vực không đến, sáng sớm mai hôm sau, bác lại mang ra cổng chợ Tô Hiến Thành tặng những người  đói còn ngồi tá túc trên các sạp hàng… từ khi chợ chưa họp.
    Bác làm việc nhiều, tháo vát, năng động luôn luôn nên có hơi vội vã, vả lại bác cũng nhỏ người, tròn lẳn, nên mỗi sáng sớm, leo lên xe đạp, là đạp vội vội vàng vàng, ý là cũng không ai để ý, nên đạp khỏe, hai mông nhô lên nhô xuống coi tức cười… từ trong cửa sổ bếp, chị em tôi thấy bác xẹt qua là cười với nhau “Đít bông đã lên đường”. Mẹ tôi hiểu ý, rầy rà, sao các con nói bác như vậy… hỗn láo vừa vừa thôi nghe!
     Tụi con có hỗn láo hồi nào đâu, kìa, mẹ ra coi, bác có hai cái mông nó bông bông thiệt đó chứ… mấy ai được như bả, thôi cứ gọi là “bà đít bông“ cho lẹ!
    Chọc ghẹo vậy chớ tụi tôi yêu quý bác đít bông lắm. Rồi tới một ngày, cũng không bông bông nữa. Vì là nhà nước hết bột mì bán rồi.
    Một ngày, tan học, làm và học bài xong, chúng tôi không biết làm gì nên lại tràn qua nhà bác. Hôm đấy, bác chặt mía cây ngoài vườn, mang vô nhà, róc mía nhai đã đời, mỏi cả răng, dòm nhau cười chán chê, bác mới thân ái bảo cả bọn là:
    Này, mấy đứa, từ nay đừng kêu bác là bác Mão hay bà đít bông nữa nhe… nghe dị hợm, cứ gọi tao là bà Doãn, tao thích vậy, nghe ổn hơn.
    Tụi tôi chu mỏ:
    Chữ Doãn khó đọc lắm bác ơi, mấy đứa cong môi nhọn mỏ ngoẹo qua ngoẹo lại… Doan Do…an Do…an… ngã Doãn…
    Bác cười:
    Tụi bây làm khó tao hoài, thôi được, vậy gọi tao là bác Dân đi.
    Ơ, không phải kiểu nhân dân đòi làm chủ hả bác?
    Tụi tôi lại cười rộ, một đám con nít vô ý tứ, trong khi chị Thanh, con gái lớn của bác, đứng bên cánh cửa, chị lừ lừ mắt rồi kín đáo khép cửa đi xuống sân. Bác cũng nhác thấy chị Thanh, nhưng im bặt, bác đứng dậy lặng lẽ lên lầu, à thì ra bác đi thắp nhang cho bác trai.
    Cứ tưởng ít ngày sau bột mì sẽ có lại, nhưng nước Nga không viện trợ nữa, cái lò làm bánh bỏ không hiu hắt. Bác rảnh rang và có lần vô thăm má tôi. Bác Dân rì rầm có lần tâm sự cùng má tôi, là bác trai mất đi bác buồn vô hạn, nhưng rồi trong một đêm bác mơ thấy bác trai về trong giấc ngủ của bác, vui tươi nói bác phải ráng vui vẻ làm việc mà nuôi con chứ, con thi đông. Bác trai còn nhắn nếu có khó khăn quá, thì hỏi ý anh Hai giúp đỡ!
    Anh Hai nào?
    Thì anh hai Nhạ của tôi đó. Tôi còn có mình ổng!
    Ổng làm lớn lắm hả? Chắc là ổng giầu.
    Cũng không biết, hỏi làm giống gì, thì ổng đưa tay lên miệng « Xuỵt ».
 
***
 
Mùa Noël lại tới, chuông nhà thờ vang vang, « Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bằng an dưới thế cho người thiện tâm… » Nhà thờ Thánh Tâm Hòa Hưng treo đèn kết hoa rực rỡ, dù e dè cộng sản thế nào, nhưng lòng con chiên thổn thức hướng về Chúa. Giáo dân treo đèn kết hoa theo khuôn viên nhà thờ. Tiếng guốc trẻ con soèn soẹt kéo lê trên sân gạch rộn ràng. Các cụ bà cắp chiếu đi xem lễ buổi trưa, chiều, chào gọi nhau rôm rả. Đèn ông sao đủ mầu sáng rực ở một góc sân có hang đá thiêng liêng. Một cái gì rất ấm cúng, được vuốt ve êm dịu trong giờ phút trọng đại Chúa ra đời:
    … Chuông  vang vang chuông vang vang, chuông giáo đường vang vang…
    Rồi cũng một buổi Noël rạng rỡ, ở đấy, khi lễ đã vãn, bác Dân gái tôi còn lại một mình trong hàng ghế cuối. Bác quỳ khấn miệng thì thầm rất lâu. Một lúc sau, chờ cho thật vắng người, bác đi quanh quẩn qua các bàn thờ, rồi trực chỉ lên bàn thánh cha vừa làm lễ xong. Hình như bác xin được xưng tội giùm cho một người ruột thịt của bác đã qua đời. Tay bác không ngừng lần chuỗi mân côi, bàn tay run run.
    Bác Dân nhìn cha xin tha thiết, nước mắt lưng tròng :
    Thưa cha, vậy có ơn chúa, có được không?
    Cha Phéro Giuse Nguyễn Văn Vàng ôn hòa an ủi, cũng như trả lời con chiên:
   Tôi nhắc lại lời chúa, « Anh em chị em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì cửa sẽ mở cho ».
    Lạy Chúa, Thầy Sáu anh Hai con lợi dụng lòng tin của cha Hoàng Quỳnh… xin chúa thương xót!
    Có tiếng nức nở, rồi tiếng đàn piano và tiếng hát của ca đoàn từ trên balcon cao trỗi lên lời vang vang thánh thót :
    « Lạy thánh thần, xin ngài nổi gió lên
    Gió linh thiêng mang linh khí muôn nơi
    Hãy cuốn đi những ô nhục kiếp người
    Cho nhân phẩm nên siêu cao thần thánh ! »
    A-men.
    Đêm Noël đêm Noël ta hãy chúc nhau an bình
    Đêm Noël đêm Noël ta hãy chúc nhau an bình…
    Sau mùa Noël đầy ý nghĩa năm ấy, tôi không còn gặp bác Doãn đi lễ mỗi cuối ngày, mỗi sáng chúa nhật nữa. Bác đã đi xa, bác dẫn bốn con gái đi thật xa. Nhà bác cửa đóng then cài kín mít, bên trong chỉ còn lại một mình chị Thanh, một hôm tôi tò mò nghển cổ hỏi chị qua bờ tường:
    Thế lúc chị đòi ở lại một mình, thì bác gái nói sao?
    Ơ, không, chị không ở một mình, có bà nội chị về đây ở với chị mà.
    Ơ… là lúc chị nhứt định không đi, bác gái có giận không?
    Mẹ chỉ nói là, con không đi, thì con cứ ở lại đây. Mẹ đưa các em đi, xong xuôi, biết đâu rồi mẹ lại về lại với con.

 

Chúc Thanh

(Paris mùa Noël 2023)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bài viết “Đánh Trận Là Một Nghệ Thuật” đã được đăng trên “The Journal of Military History” số 68 vào năm 2004. Đây là một quyển báo rất có uy tín của quân đội Hoa Kỳ từ năm 1937, chuyên đăng những bài nghiên cứu có giá trị về lịch sử quân đội của mọi nơi trên thế giới. Dù đã ra đời mười sáu năm, bài viết này có một giá trị lịch sử đặc biệt vì người viết đã tham khảo rất công phu nhiều tài liệu của cả Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ và Bắc Việt. Bài viết này đã được Cố Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hòa nhận định là chính xác đến 95%.
Máu đã đổ suốt từ thời chiến tranh cho tới lúc hòa bình 45 năm nay, những giọt máu của người dân trong nước khao khát nền Tự Do Dân Chủ vẫn còn chảy trong nhà tù với những bản án khắc nghiệt dành cho họ và những người đã chết đều có thật. Rất thật.
Vào sáng ngày 1 tháng 5-1975 Trung tá bác sĩ Hoàng Như Tùng, nguyên chỉ huy trưởng Quân Y viện Phan Thanh Giản - Cần Thơ, mặc đồ dân sự, trong tư thế quân phong, đưa tay lên chào vĩnh biêt Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lênh Quân Đoàn IV, Quân Khu IV, Vùng 4 Chiến Thuật, trước sự kinh ngạc của một nhóm sĩ quan cấp cao của bộ đội cộng sản vì sự dũng cảm của bác sĩ Trung Tá Hoàng Như Tùng. Một sĩ quan của bộ đội cộng sản mang quân hàm thiếu tá tiến đến và yêu cầu bác sĩ Hoàng Như Tùng nhận diện Tướng Nguyễn Khoa Nam.
Dù tôi đã sống trên đất Mỹ nhiều năm rồi, nhưng thỉnh thoảng, trong giấc ngủ hằng đêm, tôi vẫn gặp ác mộng về những lần trốn chạy kinh hoàng của một người bị săn đuổi. Choàng tỉnh dậy giữa đêm, tôi nhớ lại rất rõ nét những giấc mơ vừa trải qua, mồ hôi toát ra như tắm vì tôi như vẫn còn nghe văn vẳng đâu đây tiếng kẻng báo thức rõ mồn một, tiếng kẻng của các trại giam cộng sản Việt Nam được làm bằng những cái niềng (rim) xe hơi và dùng 1 thanh sắt gõ vào tạo thành 1 âm thanh vang rất xa. Ai từng ở tù hay bị đày ra những trại cưỡng bức lao động, hoặc trại tập trung cải tạo của cộng sản Việt Nam thì không bao giờ quên được tiếng kẻng này.
46 năm sau biến cố cưỡng chiếm Hoàng Sa 1974, và 32 năm sau vụ thảm sát Gạc Ma nơi quần đảo Trường Sa 1988, cả hai đều do bàn tay vấy máu của Trung Cộng. Không chỉ bằng vũ lực, Bắc Kinh nay còn viện dẫn Công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng ký như bằng chứng pháp lý gây khó khăn cho Việt Nam trong tranh chấp chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
Kim lái chiếc xe Honda đi biếu cái bánh chưng cuối cùng vào lúc 7 giờ sáng ngày 30 Tết năm 1975. Tuy có bao nhiêu lần thức khuya học bài, nhưng đây là lần đầu tiên Kim thức trắng đến sáng, cái đầu nhức như búa bỗ, óc trống rỗng, người lâng lâng như muốn bay lên mây...
Mở đầu nhật ký tuần này xin được góp phần tưởng nhớ các nhân viên y tế, đặc biệt là các y tá (những thành viên trong đội ngũ thiên thần áo trắng ở tuyến đầu chống dịch bệnh Vũ Hán) ở khắp nơi trên thế giới đã "sinh nghề tử nghiệp". Tính đến đầu tháng 4 năm 2020, đã có hơn 100 "thiên thần áo trắng" qua đời vì bị lây nhiễm Coronavirus từ bệnh nhân, hơn một nửa là nhân viên y tế ở Ý.
Những dòng ký sự và nhận định sau đây, tường thuật lại những biến cố xảy ra tại Trường Y Sàigòn từ năm 1967-1971 và sau đó...do sự can thiệp của phái bộ Hội Đoàn Bác sĩ Mỹ -American Medical Association tại Saigòn (AMA-SAIGON) vào nội bộ Trường Y Saigon. Những sử liệu của bài nhận định này đều dựa trên những điều tường thuật của quyển sách thời danh SAIGON MEDICAL SCHOOL do 3 người viết: CH William Ruhe MD, Norman Hoover MD và Ira Singer PhD, tất cả ba vị này đều là nhũng người lãnh đạo và cố vấn cho cuộc can thiệp của phái bộ AMA vàoTrường Y Saigon từ năm 1967. Tập sách SAIGON MEDICAL SCHOOL do chính cơ quan AMA, xuất bản tại Mỹ năm 1988.
Dạo đó, đầu thập niên 70, dưới giàn hoa giấy, trong khoảng sân nhỏ nhà chúng tôi, thỉnh thoảng có những người lính thuộc mọi binh chủng của Quân lực VNCH. Họ ngồi hút thuốc, hay tay đàn miệng hát vì trong cư xá Đoàn Văn Cự ở Biên Hòa có khá nhiều chị đang học lớp 12 rất đẹp. Nhà chúng tôi ở đầu cư xá nên các chị thường phải đi ngang nhà chúng tôi trước khi về nhà mình.
Mẹ tôi bán thuốc tây để dành được một ít tiền cho chị em tôi đi vượt biên. Chuyến đầu mẹ cho ba chị em tôi đi nhưng bị đổ bể, đợt hai mẹ cho chị tôi đi với gia đình dì, và được Cap Anamur Đức vớt, đưa đến Đức vào năm 80. Một năm sau mẹ gửi hai anh em tôi cho cô chủ tàu ở Cần Thơ và chúng tôi được đưa lên tàu đánh cá nhỏ có 89 người.Thuyền rời bến, ngày đầu chúng tôi được phát nước uống, qua ngày thứ hai thì không còn giọt nước nào. Lúc đó vào tháng năm, nắng nóng, thuyền lại không có mui che nên ai cũng mệt lả, thuyền đông người lại quá chật hẹp không cựa quậy gì được, tôi chỉ cần nhút nhích một chút là bị người ta nhéo. Lúc đó tôi chỉ thấy chung quanh là biển rộng mênh mông, tôi nhớ nhà và cầu mong sao cho bị bắt để được về nhà lại.Trên thuyền bắt đầu có một chị bị sảng vì thiếu nước uống, rồi thì không biết ai đó lấy lon Guigoz truyền nước uống cho nhau nhưng ai hớp vô rồi cũng phun ra vì đó là nước biển, mặn quá, tôi cũng không ngoại lệ.
Trời Chicago cuối tháng Tư vẫn còn lạnh. Tuy thế anh em đi dự buổi họp điều-trị-tâp-thể đông hơn thường lệ. Nhiều anh em sĩ quan ở các nhóm khác, không phải họp hôm nay, họ cũng đến. Phòng họp dành cho buổi điều-trị-tập-thể của các anh em sĩ quan H.O. tại Asian Human Services -Chicago rộng rãi và tươm tất, được trang hoàng trang nhã với những bức tranh ấn tượng của Claude Monet, màu sắc hàì hòa gợi nhớ về một thuở thanh bình.
Thôi thì khỏi nói, mọi người tay bắt mặt mừng, ai ai cũng vui như hội. Bà Tám đầu hẻm oang oang: - Thằng nhỏ coi bộ phổng phao ghê vậy ta, hồi còn ở đây gầy nhom, da bánh mật. Nó qua bển một thời gian giờ thay da đổi thịt quá, nếu đi ngoài đường chắc tui nhận hổng ra. Cả nhà quây quần tíu tít, bia bọt khui lốp bốp. Tuị bạn ngày xưa bá vai kề cổ giờ cũng ra ông nọ bà kia hết trơn. Chỉ có mỗi thằng An là lẹt đẹt làm anh công chức quèn thôi!


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.