Hôm nay,  

Những mối tình bất tử

14/02/202408:14:00(Xem: 2551)
Valentine's Day

love in anti

Từ muôn đời nay tình yêu là một giấc mộng đẹp giữa đời thường cuộc sống. Có tình yêu, cuộc sống của con người ý nghĩa hơn vì mọi hỷ, nộ, ái, ố cũng như... thất tình sẽ "được" tình yêu mang đến cuộc sống của chúng ta một cách nhanh chóng và "đầy đủ".
    Việt Nam là một đất nước hồn hậu, luôn ấm áp tình người. Người Việt Nam tự hào khi mình là kết quả của một mối tình thần tiên tuyệt đẹp giữa cha Lạc Long Quân dũng mãnh và mẹ Âu Cơ xinh đẹp. Kể từ ngày ấy, con cháu của mối tình này sống và yêu nhau trong sự bao dung của trời đất, thánh thần. Có biết bao mối tình đẹp đã được nhân gian cũng như lịch sử chính thống ghi vào sử sách truyền tụng và ca ngợi.
    Tình yêu dân gian thật đẹp, thật hồn hậu và luôn chân thành tha thiết. Ca dao có câu:

Ai về có nhớ ta chăng
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười
.
Hay:

Canh khuya thắp chút dầu dư
Tim loan cháy lụn thiếp sầu tư một mình
.
 
Xin lướt qua những mối tình bất tử trong huyền sử cũng như chính sử của nhân loại, những mối tình có cả hạnh phúc lẫn đau thương, và mãi mãi nằm trong trí nhớ của chúng ta. 
 
Manuela  Bolivar
 
Manuela và Bolivar, một trong những mối tình lãng mạn đẹp nhất trong lịch sử. Manuela Saenz (1797-1856) là một người phụ nữ có mọi thứ mình muốn. Cô xuất thân từ một gia đình giàu có và kết hôn với một người Anh. Cô trẻ, xinh đẹp và là một trong những nhân vật được kính trọng nhất ở thành phố Quito (Ecuador). Ngày Quito của cô giành được độc lập, cuộc đời Manuela đã thay đổi mãi mãi. Tại một vũ hội, cô gặp một người đàn ông mà cô sẽ yêu cho đến chết: Simon Boliva.
Manuela đã bỏ chồng, dinh thự... để đi theo Người giải cứu. Anh cũng yêu cô ấy. Anh gọi cô là “Người điên rồ đáng yêu của tôi”. Cô theo anh vào doanh trại và chiến đấu chống lại quân đội di dân, việc này đã mang lại cho cô cấp bậc đội trưởng.
   Tuy nhiên, điều khiến cặp đôi này trở thành một trong những câu chuyện tình yêu vĩ đại nhất chính là hành động dũng cảm của Manuela trong cái được gọi là “Âm mưu tháng 9”. Kẻ thù của Bolivar cố gắng giết anh ta. Manuela sau đó đối mặt với họ với thanh kiếm trong tay, điều này giúp Bolivar trốn thoát. Người phụ nữ này đã đi vào lịch sử với tư cách là “Người giải phóng cho Người giải phóng”.
   Cô được coi là anh hùng dân tộc ở thành phố quê hương Quito, Ecuador.
 
Abélard và  Héloïse 
 
Chuyện  của Abelard và Héloïse cũng là  một trong những câu chuyện tình yêu vĩ đại nhất trong lịch sử. Pierre Abelard là một trong những người khôn ngoan nhất trong thời đại của ông. Ông là một triết gia và nhà thần học, nhưng đó không phải là lý do tại sao ngày nay ông vẫn được nhớ đến; điều khiến ông nổi tiếng là mối quan hệ đầy biến động với Héloïse, người được coi là một trong những phụ nữ lừng lẫy nhất thời bấy giờ. Ông là người tình của cô khi cô mới 16 tuổi.
   Cả hai yêu nhau và cô có thai, một điều không bình thường vào thời điểm đó. Abelard bắt cóc cô để đưa cô đến gặp em gái. Đây là nơi “Astrolabe” ra đời và vẫn được cha mẹ chăm sóc. Sau đó, họ kết hôn trong bí mật để không làm hỏng sự nghiệp linh mục phụ tá của Abelard. Ông chú, người giám hộ của Héloïse, đã khiển trách cô vì cô từ chối công khai chấp nhận cuộc hôn nhân. Abelard dẫn Héloïse vào một dòng tu để bảo vệ cô khỏi người chú. Ông rất  tức giận, hai người yêu nhau không bao giờ được gặp nhau nữa. Tuy nhiên, họ không bao giờ mất liên lạc và vẫn duy trì mối quan hệ bằng thư. 
    Những bức thư họ trao đổi được coi là một trong những tác phẩm vĩ đại nhất của văn học Pháp. Vào thế kỷ 19, họ được chôn cất ở Paris, trong cùng một ngôi mộ.
 
Edouard VIII và Wally Simpson
 
Edward VIII và Wally Simpson; đây là một trong những câu chuyện tình yêu bị chỉ trích nhiều nhất. Mối quan hệ này nổi tiếng khắp thế giới vì Edward VIII đã từ bỏ ngai vàng nước Anh để kết hôn với Wally Simpson. Nhiều người cho họ là cặp tình nhân lãng mạn nhất thế kỷ 20, trong khi những người khác lại nghĩ đó là một mối tình không quan trọng.
   Người Anh chưa bao giờ tha thứ cho  quốc vương về việc này. Những mối quan hệ lãng mạn đôi khi  đưa  đến những vấn đề thiết thực hơn, chẳng hạn như quyền lực. Đó là năm 1936 và Châu Âu gần như đang có chiến tranh. Edward VIII nổi tiếng là người nóng nảy và yếu đuối.
   Churchill thậm chí còn nói rằng cả nước Anh phải cảm ơn Wally Simpson vì đã giúp đất nước tránh được vị vua tồi tệ nhất. 
   Họ sống một cuộc sống hoàn toàn phù phiếm, từ bữa tiệc này đến bữa tiệc khác, đi du lịch hết nơi này đến nơi khác.
 
Paris và Helen
 
Trong thần thoại Hy Lạp, Helen là con gái của thần Zeus và Leda. Theo truyền thuyết, cô là người phụ nữ đẹp nhất thế giới, chỉ thua nữ thần Aphrodite. Cô đã kết hôn với Menelaus, vua của Sparta, trước khi bị Paris, một hoàng tử thành Troy bắt cóc, gây ra Chiến tranh thành Troy giữa người Hy Lạp và người thành Troy. 
 
Taj Mahal
 
Một tình yêu như trong cổ tích
Truyền thuyết kể về câu chuyện tình yêu phi thường giữa Hoàng đế Shah Jahan và một “người vô danh" tên là Mumtaz Jahan. Theo truyền thuyết này, họ gặp nhau khi còn trẻ và ngay lập tức yêu nhau. Maharaja, có nghĩa vụ với gia đình và người dân của mình, đã bí mật hứa với cô lòng trung thành trong khi vẫn làm tròn nghĩa vụ của mình với tư cách là quốc vương.
   Sau đó cha ông đã tìm cho  ông  một người phụ nữ xinh đẹp, thông minh, xuất thân từ một gia đình danh giá. Ông vâng lời cha và cưới cô gái trẻ này. Tuy nhiên, cuộc hôn nhân của họ chưa bao giờ viên mãn và Shah Jahan cũng không thất hứa với Mumtaz Jahan. Cha ông thất vọng khi không có được người thừa kế đã hỏi vợ của Shah lý do tai sao. Cô giải thích rằng Shah Jahan rất tốt với cô nhưng cô sẽ không bao giờ có khả năng sinh con vì anh từ chối thực hiện bất kỳ hành động thân mật nào với cô.
   Người cha tức giận quyết định đi tìm người vợ thứ hai, xinh đẹp hơn, giàu có hơn và thông minh hơn. Vương công xứ Ấn Độ đang say mê người tình không nhận ra vẻ đẹp phi thường này. Một lần nữa,  ông lại nghe lời cha và lấy cô làm vợ thứ hai, nhưng không bao giờ đồng ý cuộc hôn nhân.
   Khi cha  ông qua đời, cuối cùng anh cũng có thể chọn được vợ cho mình. Không chút do dự, ông kết hôn với người mình yêu. Cuộc hôn nhân của họ như một giấc mơ và  họ có 14 người con, trong đó  3 người sống sót. Mumtaz Mahal qua đời khi sinh đứa con thứ mười bốn của họ, một bé gái. Nhưng trước khi chết, cô bắt  ông  phải hứa hai điều: thứ nhất là  ông  phải giữ lời hứa chung thủy và không tái hôn, thứ hai là xây cho cô một lăng mộ nhỏ. Shah Jahan, đau buồn và suy sụp trước cái chết của vợ mình, đã xây dựng một tòa nhà thật đồ sộ. Ông muốn cả thế giới biết ông yêu cô đến nhường nào. Vì thế ông quyết định thuê kiến trúc sư và xây dựng một lăng mộ thật nguy nga tráng lệ: Taj Mahal.

Tristan và Isolde
 
Là một huyền thoại văn học thời trung cổ. Ban đầu, câu chuyện là một bi kịch xoay quanh mối tình ngoại hôn giữa hiệp sĩ Tristan và công chúa Isolde. Nó có trước truyền thuyết về Lancelot du Lac và Guinevere của Arthurian, có lẽ được lấy cảm hứng từ nó và có ảnh hưởng lâu dài đến nghệ thuật phương Tây (hội họa, văn học, v.v.) kể từ khi nó xuất hiện vào thế kỷ 12.  
   Vua Marc de Cornwall cử cháu trai Tristan đi tìm Isolde the Blonde để cầu hôn cô. Nhưng trên đường về, Tristan và Isolde đã uống một lọ thuốc tình yêu dành riêng cho chú rể. Tristan và Isolde yêu nhau nhưng Isolde phải cưới Marc. Một ngày nọ, Marc biết được và kết án họ, đưa lên giàn thiêu. Nhưng nhờ một phép lạ, họ đã trốn thoát. Sau do, Marc phát hiện ra họ bị ngăn cách bởi một thanh kiếm và Marc - Tristan làm hòa.
    Tristan đồng ý trả lại Isolde cho Marc và rời khỏi đất nước. Anh kết hôn với một Isolde khác: Isolde Tay Trắng ghen tị với tình yêu của chồng dành cho Isolde the Blonde. Khi Tristan bị trọng thương, gọi Isolde the Blonde đến giúp đỡ vì cô là người duy nhất có khả năng chữa lành vết thương cho anh. Cả hai thỏa thuận rằng con thuyền sẽ quay trở lại với cánh buồm trắng nếu cô đồng ý giúp anh. Sau đó Isolde the Blonde đến trên một con tàu có cánh buồm trắng, nhưng vợ của Tristan vì tức giận và ghen tị đã nói với anh rằng cánh buồm màu đen. Tin rằng mình bị người yêu bỏ rơi, anh đã tuyệt vọng và sau đó qua đời.
    Isolde the Blonde, khi biết được việc này đã chết trong vòng tay anh.
 
Lancelot và Guinevere   
 
Lancelot là một trong những Kỵ sĩ Bàn tròn, đồng thời là bạn đồng hành xuất sắc nhất của Vua Arthur, còn Guinevere là một nữ hoàng xinh đẹp và cao quý.
   Chuyện tình giữa hai người này được coi là một trong những câu chuyện nổi tiếng nhất trong Truyền thuyết Arthurian. Câu chuyện bắt đầu khi Lancelot đem lòng yêu vợ của vua Arthur, hoàng hậu Guinevere. Bất chấp mối tình của họ, Guinevere vẫn cố gắng giữ Lancelot tránh xa cô, nhưng không được lâu. Một đêm nọ, khi họ đang ở trong phòng cùng nhau, các cháu trai của Vua Arthur – Agravain và Mordred cùng với 12 hiệp sĩ đã đốt cháy căn phòng và đôi tình nhân.
    Lancelot bằng cách nào đó đã thoát khỏi đám cháy, nhưng thật không may, Nữ hoàng Guinevere lại không may mắn như vậy nên bị mắc kẹt ở đó. Nhưng sau đó anh quay lại giải cứu cô và làm suy yếu vương quốc của Vua Arthur bằng cách chia Hội Hiệp sĩ Bàn tròn thành hai nửa – đội Lancelot và đội Arthur.
    Mặc dù anh đã cứu cô khỏi kế hoạch xấu xa nhưng cô đã trở thành một nữ tu và ở lại Amesbury cho đến khi qua đời, còn anh thì phải trải qua những ngày còn lại của mình như một ẩn sĩ yếu đuối.
 
Artemis và Orion
 
Không chỉ văn hóa Á Đông mới có những câu chuyện tình buồn mà thần thoại phương Tây cũng không ít mối tình éo le, đau khổ. Trong đó, thiên tình sử của nữ thần Artemis với chàng Orion là một điển hình. Artemis là nữ thần trong trắng và tươi trẻ nhất vùng đất Olympus. 
   Trong một lần đi săn, nàng tình cờ gặp gỡ và quen biết Orion, con trai của thần đại dương Poseidon và 1 người con gái trần gian. Vốn say mê cung thuật, nữ thần nhanh chóng cảm kích trước tài năng săn bắn của Orion và vẻ ngoài cường tráng của chàng nên chẳng bao lâu sau, tình yêu đã nảy nở giữa hai người. Chuyện đến tai thần Apollo, anh trai của Artemis.
   Artemis vốn là nữ thần săn bắn, đã từng lập một lời thề sẽ không bao giờ kết hôn để bảo vệ trinh tiết. Song, trước tài năng và vẻ đẹp của chàng thợ săn Orion, Artemis đã đem lòng say mê ngay từ cái nhìn đầu tiên. Chuyện tình đẹp như mơ của hai người bị chính người anh sinh đôi của Artemis là thần Mặt trời Apollo ngăn cản. Vừa trải qua một cuộc tình đau khổ với tiên nữ Daphne và để bảo vệ cho sự trong trắng của nữ thần, Apollo kiên quyết phản đối lời cầu hôn của Orion dành cho Artemis.
   Apollo luôn cho rằng Artemis thế nào cũng kết hôn với Orion. Vì vậy, Apollo đã thừa lúc Orion đang bơi xa bờ, nhìn từ xa chỉ thấy đầu chàng là một chấm đen nhỏ trên mặt nước bèn tới gặp Artemis.
Apollo chê khả năng bắn cung của Artemis và thách nàng bắn trúng chấm đen nhỏ đang di chuyển trên đại dương. Vì quá nóng giận trước sự giễu cợt của anh trai, Artemis giương cung và bắn thẳng vào mục tiêu mà Apollo chỉ - đó là cái đầu của Orion. Mũi tên bay đi rất nhanh và tất nhiên, giết chết Orion. Khi xác chàng giạt vào bờ, Artemis đau đớn tột cùng và nhận ra chính tay mình đã giết chết người yêu.
   Artemis đau buồn và hóa thân xác Orion thành một chòm sao để hằng đêm có thể ở bên cạnh người yêu đã khuất của mình.
 
Anarkali và Salim
 
Anarkali gốc Iran nhưng sau đó di cư đến Lahore, Punjab (vùng đất rộng lớn tại Pakistan và Ấn Độ). Cô là một nữ nô lệ huyền thoại. Salim là một Thái tử hư hỏng và thô lỗ.Chuyện tình giữa hai người bắt đầu khi Salim nhìn thấy Anarkali biểu diễn Mujra cho hoàng đế Akbar. Anh yêu vẻ đẹp duyên dáng và xinh đẹp của cô ngay lập tức.
   Mặc dù nổi tiếng ở Lahore nhưng Anarkali vẫn là một hầu gái và một vũ công. Cô ấy không được coi là thuộc dòng máu quý tộc nên mối quan hệ của họ là bất hợp pháp. Sau khi biết về mối quan hệ của họ, Akbar quyết định bắt Anarkali và giam cô tại một trong những ngục tối ở Lahore.
   Khi Salim biết được kế hoạch của Akbar, anh đã tuyên chiến với cha mình nhưng không thể đánh bại ông ta do đội quân đông đảo của ông. Thất bại, Salim bị kết án tử hình. Khi Anarkali biết chuyện, cô cố gắng can thiệp và cứu Salim, nhưng cô cũng bị chôn sống trong một bức tường gạch khổng lồ ngay trước mắt anh.
 
John  Abigail Adams
 
John Adams (1735-1826 ), sinh ra ở Braintree, là một chính khách, nhà văn, luật sư và nhà ngoại giao người Mỹ, còn Abigail (1744- 1818 ) sinh ra ở Weymouth, Massachusetts với tên Abigail Smith.  
Dù biết nhau từ nhỏ nhưng chuyện tình của họ chỉ bắt đầu khi họ trưởng thành.
   Câu chuyện bắt đầu khi Abigail 17 tuổi và John 26 tuổi. Sau khi yêu nhau được khoảng 2 năm, họ kết hôn; cha của Abigail, mục sư địa phương làm phép hôn phối cho họ .
   Abigail ham học hỏi kiến thức nên đã học viết, đọc và biết về các vấn đề chính trị nhưng chưa bao giờ có cơ hội đến trường. Cô luôn thẳng thắn nói lên suy nghĩ của mình về vấn đề bình đẳng. Họ rất yêu nhau và giúp nhau bằng mọi cách trong khả năng. Dù phải sống xa nhau trong thời kỳ cách mạng nhưng họ vẫn không ngừng yêu nhau
   Họ đã viết  thư cho nhau, và những bức thư đã trở thành nổi tiếng cho đến ngày nay. Có gần 1200 lá thư được viết trong suốt cuộc đời của họ. Họ chỉ ở bên nhau sau khi Abigail Adams trở thành tổng thống. Họ vẫn ở trang trại cũ của mình cho đến khi tổng thống qua đời. John mất 8 năm sau Abigail. Hai người là bạn rất thân với nhau.
 
Hai nhà khoa học nổi tiếng Marie và Pierre Curie
 
Những thiên tình sử không chỉ xuất hiện từ thời cổ đại hay trung đại mà đến thời hiện đại vẫn có những chuyện tình khiến người đời vô cùng ngưỡng mộ. Như hai nhà khoa học nổi tiếng Marie và Pierre Curie là một ví dụ điển hình. Marie Curie (1867-1934) là nhà vật lý, hóa học nổi tiếng người Ba Lan. Tình yêu của bà với nhà khoa học người Pháp Pierre Curie đẹp và kết thúc có hậu.


Thailan sưu tầm

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.