Hôm nay,  

Chiều Trên Phá Tam Giang…

02/03/202415:31:00(Xem: 3514)
ann phong 22
Minh họa: Ann Phong
 
Tôi đã gặp nhà thơ Tô Thùy Yên lúc ông còn sinh tiền đôi lần. Lần gặp nhớ nhất là hôm nhà thơ Phan Xuân Sinh ra mắt tập thơ “Bơi trên dòng nước ngược” của anh ở Houston. Đêm đó thâu đêm ở tư gia của nhà thơ Phan Xuân Sinh, toàn những nhà văn, nhà thơ thời chiến tranh mà tôi ngưỡng mộ. Đêm đó có dịp trò chuyện nhiều với cố thi sĩ Tô Thùy Yên. Tôi đã đưa ông xem qua bài viết “Tháng tư đọc lại Ta Về của Tô Thùy Yên” mà tôi đã viết nhân dịp tháng tư lại về nhưng vì sự tôn trọng, tôi muốn ông đọc qua và cho phép được đăng báo. Được ông đồng ý đã là một vinh dự cho hậu bối.

   Thời gian còn lại tôi thăm hỏi ông nhiều về bài thơ “Chiều trên phá Tam Giang” vì tôi thích bài thơ đó. Được ông tâm sự ít nhiều và hoàn cảnh sáng tác bài thơ mang giá trị lịch sử với không phải một người là tác giả vì tầm khái quát của bài thơ đã nói lên tâm tư của cả một thế hệ sống giữa chiến tranh. Ông là “người viết sử bằng thơ”, ngồi trò chuyện với ông ngoài sân nhà anh Phan Xuân Sinh, tôi đã có tựa đề bài viết về thi phẩm “Chiều trên phá Tam Giang” là “người viết sử bằng thơ…” sau khi đã thụ nhận cảm xúc bài thơ từ chính tác giả. Nhưng viết mấy lần đều không qua khỏi cảm giác lấn cấn của hậu bối, cảm nghĩ không phải người cùng thời thì sao rõ được câu chữ, ẩn ý sâu xa mà tác giả đã gởi gấm trong tác phẩm, thông điệp của tác giả khi viết ra, viết nên cảm xúc của cả thời đại, cả thế hệ những người trẻ lúc bấy giờ. Một hậu sinh có thất kính khi diễn giải một tác phẩm lớn hơn tầm vóc, hiểu biết của bản thân, của tâm thức đời sau. Nên những bài viết về “Chiều trên phá Tam Giang cứ nằm trong máy tới hối tiếc… ông đã qua đời.

   Tôi từng nghĩ về người cùng thời với nhà thơ Tô Thùy Yên là nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, nhà thơ này viết, “ôm em trong tay mà đã nhớ em những ngày sắp tới…” Là kẻ sinh sau đẻ muộn nên đọc câu thơ thấy rùng mình, nhưng sau đó mới thấy thật gần với người lính có dịp về phép đôi ngày, gặp được người yêu như món quà vô giá của tuổi trẻ; nhưng ngay trong hạnh phúc lứa đôi ngắn ngủi của thời gian đã thấy tương lai mù mịt của ngày mai, bởi chiến tranh không phải hoà bình, người sống hôm nay không biết ngày mai sẽ ra sao, nhất là người lính. Ngày mai anh đi rồi có về không với súng đạn vô tình ngoài chiến trận? Càng ngẫm nghĩ càng thấm thía, cả một thế hệ mất phương hướng. Hôm nay đang ôm em trong tay mà đã nhớ em những ngyà sắp đến, hôm nay còn thở thì cấp cứu đồng đội trúng đạn thù, nhưng ngày mai… ai là người ở lại như thiếu tá Nguyễn Đình Bảo đã ở lại Charlie. Câu thơ nói lên cả thế hệ mù mịt trong khói súng, tôi cảm nhận về câu thơ linh cảm của thi sĩ Thanh Tâm Tuyền một cách nổi da gà, nhưng sau đó thương thân thế hệ sau ông không còn gì để mất, chúng tôi chỉ còn một cách duy nhất là trốn chạy sự phân biệt đối xử sau khi thế hệ trước đã tan rã. Chúng tôi cũng ôm nhau trong tay mà đã nhớ nhau những ngày sắp tới vì kẻ ở người đi, sông nước vô tình, tương lai mù mịt…Ít nhất, tôi thấy có sự đồng cảm với câu thơ của thi sĩ Thanh Tâm Tuyền về tâm trạng hoang hoải trong bối cảnh lịch sử mình đang sống, tương lai vô định trước mắt, và mất mát không tránh khỏi trong hiện tại ngoài ý muốn…

   Nhưng với Tô Thùy Yên thì thơ ông tự đã chia đôi thành hai thời kỳ rõ rệt. Bài thơ “Chiều trên phá Tam Giang” nổi bật trong thời kỳ thứ nhất, thời chiến tranh ngày càng leo thang, ngày càng khốc liệt. Có lẽ không cần nói nhiều về thơ từ và nghệ thuật dùng từ trong thơ của một bậc thầy như Tô Thùy Yên khi bài thơ giàu thơ từ miên man tâm trạng của cả một thế hệ thanh niên thiếu nữ còn ngồi ghế nhà trường hay đang ngoài chiến trận trong tuổi yêu đương. Bài trường thi hơn 150 câu của Tô Thùy Yên đã viết năm 1972. Mô tả nhiều góc cạnh của cuộc sống thời chiến, suy tưởng của người lính đi giữa chiến tranh, đóng quân ngoài miền Trung khô cằn sỏi đá nhớ về Sài gòn, nơi có người yêu với những sinh hoạt thường nhật nơi thị thành trong không khí chiến tranh đã lan về phố thị, “giờ này thành phố chợt bùng lên/ để rồi tắt nghỉ sớm/ ôi Sài gòn Sài gòn giờ giới nghiêm…” Cứ nhắm mắt hình dung ra Sài gòn có giờ giới nghiêm thì người dân hoang mang tột độ, cuộc sống xáo trộn mọi tầng lớp, mọi sinh hoạt bình thường bỗng không còn bình thường nữa. Và đó là nơi người trai ra đi vì chiến tranh lan rộng, ngày càng khốc liệt, nhưng làm sao quên người yêu và chốn cũ… “giờ này có thể trời đang nắng/ em rời thư viện đi rong chơi/ hàng cây viền ngọc thạch len trôi/ nghĩ tới ngày thi tương lai thúc hối/ căn phòng nhỏ cao ốc vô danh/ rồi nghĩ tới anh, nghĩ tới anh…” Người lính Cộng hoà ngoài mặt trận, nhưng dường như không có tẩm can khát máu. Người dân thị thành văn minh bậc nhất Đông Nam Á bấy giờ vẫn hiền hoà trong tâm tưởng một chàng thư sinh nên chỉ nghĩ tới mùa hè về với Sài gòn mưa rồi chợt nắng, cũng là mùa thi tương lai thúc hối… nhưng hơn hết vẫn là nỗi nhớ người yêu da diết nơi thị thành, qua kỷ niệm ẩn hiện rất đỗi đời thường nhưng in đậm ký ức người đi, “căn phòng nhỏ cao ốc vô danh/ rồi nghĩ đến anh, nghĩ đến anh…” Thơ từ nhẹ nhàng, tinh tế, sâu lắng. Không tuốt gươm bẩn với người xưa bằng ca từ hạ tiện, “mưa bên chồng có làm em khóc/ có làm em nhớ những khi mình mặn nồng…” Thơ là người người là thơ, nhạc là tâm hồn nhạc sĩ. Tôi đã gặp cả nhà thơ và nhạc sĩ vang danh một thời, nhưng tôi mãi thích sự bình dị trong thơ từ, ca từ bao hàm độ lượng, vị tha không thể thiếu trong sáng tạo nghệ thuật. Về tâm thức vị tha cho người cũng là vị tha cho mình, cho dù xám hối, “con đường em đi đúng đấy em ơi…” thì vết thương xưa vẫn rỉ máu một người.

   Xin hãy nghe lại, “giờ này thương xá sắp đóng cửa/ người lao công quét dọn hành lang…” Sao lại nhớ giờ này thương xá sắp đóng cửa giữa nơi làn ranh sự sống và cái chết rất mong manh? Có lẽ người lính và người yêu từng đã đi thương xá với nhau nhiều lần, có nhiều kỷ niệm đã đi vào ký ức không thể nào quên. Thi sĩ đã nhớ cái bình thường làm cho nỗi nhớ mênh mang, lắng đọng hơn những nỗi nhớ của sự tưởng tượng làm người ta sa sút hơn khi tỉnh táo nhận thức… chỉ là mộng thôi. Nhớ người lao công quét dọn hành lang trong hoàn cảnh sự sống và cái chết cách nhau một làn đạn, là tâm thức của người đi giữa chiến tranh sao? Hẳn là người lính đang đối mặt với sự sống chết ngoài chiến trận nhưng vẫn không quên sự hiện diện nhỏ nhoi của người quét dọn hành lang trong đời sống đã bị chiến tranh cướp mất, tình yêu đôi lứa đã bị ngăn cách bởi sự vô lý của chiến tranh. Những ẩn khuất trong tâm tư người lính không phải ai cũng hiểu nên càng ít ai nói ra được, mà nói hay như Tô Thùy Yên lại càng hiếm trong bối cảnh dầu sôi lửa bỏng, chiến tranh lan rộng, quê hương ngập tràn khói lửa thì người quét dọn hành lang vẫn hiện diện, bất biến trong tâm thái bình tĩnh nhưng không khiếp sợ chiến tranh mới nhìn đời độ lượng bằng tâm hồn tha nhân, mới lấy bình dị làm chân chứ không chọn hào nhoáng làm đầu. Có phải đọc câu thơ này của Tô Thùy Yên thì người đọc dễ liên tưởng tới một cây cổ thụ khác cùng thời là nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn, “xin chiếc lá vàng làm bằng chứng yêu em…” Nếu người yêu thuộc loại người thích vàng lá hơn thì đã không đến thăm nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn vào đêm trừ tịch… (Một chuyện vui nho nhỏ, tôi nói nguyên văn với ông Nguyễn Đình Toàn ở Dallas, “nếu em thích vàng lá hơn lá vàng thì em đã vào Chợ lớn thăm ông xì thẩu đêm ba mươi rồi phải không nhạc sĩ?” Ông chỉ cười thôi, “thế mà cũng nghĩ ra được…”)

   Trở lại với nhà thơ Tô Thùy Yên, ông từng  kể: Sau mười năm tù cải tạo ông được thả, tưởng đã hết nợ oán thù nên ông tiếp tục làm thơ. Một bài thơ không ghi tên họ, nhờ người quen đem ra nước ngoài cho bạn bè của ông đọc chơi. Không ngờ bài thơ được công khai trên những trang phê bình văn học tại hải ngoại. Ông đang còn trong nước nên bị giam tù thêm ba năm. Ông bình thản kể với ngữ điệu không oán hờn, không căm thù ai hết. Dường như với ông, cuộc sống vốn vậy; con người vốn thế… lịch sử chỉ như con người thay trang phục. Ông kể mua vui cho anh em sum vầy,  khi ông làm sĩ quan chiến tranh chính trị đã thẩm vấn những cán bộ cộng sản bị giam trong một nhà tù gần sông Sài Gòn. Sau tháng 04 năm 1975, cũng trong nhà giam đó, những cán bộ cộng sản trở thành người thẩm vấn ông. “Lịch sử chỉ là những con người thay đổi lớp áo - Tô Thùy Yên.”

   Thơ Tô Thùy Yên nhiều thơ từ mới lạ, thể thơ được ông dùng nhiều là thơ năm chữ, bảy chữ hay chín chữ. Đặc biệt những bài thơ của ông khá dài, không giống thơ cổ nhưng hoài cổ, hư và thực đan xen làm khó mà cũng là làm hay bài thơ vì khó đọc một lèo một lượt, người thưởng ngoạn chỉ đọc được một khổ thơ, đôi câu thơ lại phải dừng để suy nghiệm…Ai đọc đến câu “cảm ơn hoa đã vì ta nở/ thế giới vui từ nỗi lẻ loi…” mà không dừng lại như vừa hớp được hớp trà ngon, ai nuốt ực bao giờ? “ta về cúi mái đầu sương điểm/ nghe nặng từ tâm lượng đất trời/ cảm ơn hoa đã vì ta nở/ thế giới vui từ nỗi lẻ loi…” Ông đã vượt lên trên những người làm thơ cùng thời, nhưng ngoài đời ông luôn thua xa họ ở khoản khoe mẽ, ta đây. Tôi gặp ông khi ông đã già, nhưng cây sao già vẫn không lẫn được với cây me, cây ổi.

   Ông đã có thơ đăng trên những tập san trước khi ông hai mươi tuổi. Ông cùng Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền là những người tiên phong của thơ ca miền nam thập niên 1970. Thơ ông có thể nói từ khi bắt đầu tới cột mốc 30 tháng 04 năm 1975 là lịch sử viết bằng thơ về thời kỳ chiến tranh ở quê nhà. Đất nước, xã hội, con người, tình yêu, tuổi trẻ… đều trở thành tư liệu qúy giá cho người tham khảo đời sau. Và trong thời kỳ đầu của thơ ông, mảng kiến tạo nên tên tuổi ông là bài thơ “Chiều trên phá Tam Giang”. Bài thơ như bức tranh tổng thể về miền nam thời nội chiến quốc-cộng, chỉ có tình yêu là vượt thoát bối cảnh lịch sử, trong hoàn cảnh nào, diễn biến lịch sử ra sao thì tình yêu vẫn tồn tại và mãnh liệt.

   Thời kỳ thứ hai trong thơ Tô Thùy Yên, mảng thơ thứ nhì trong sự nghiệp thơ ca của ông là sau biến cố lịch sử, sau mười năm ông chết dấp trong tù cải tạo là bản trường thi “Ta về”  với 126 câu, bài thơ ghi lại lịch sử quê nhà khốn cùng sau chiến tranh,  “ta về một bóng trên đường lớn/ thơ chẳng ai đề vạt áo phai/ sao bỗng nghe đau mềm phế phủ/ mười năm đá cũng ngậm ngùi thay/ vĩnh biệt ta-mười-năm chết dấp/ chốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu/ mười năm mặt sạm soi khe nước/ ta hóa thân thành vượn cổ sơ…/ ta về như lá rơi về cội/ bếp lửa nhân quần ấm tối nay/chút rượu hồng đây xin rưới xuống/ giải oan cho cuộc bể dâu này…”

   Lời thơ như đã thoát ra khỏi khung trời hoa mộng một thời tuổi trẻ. Ngậm ngùi thay thơ từ trong “Ta về” từng câu chữ thâm trầm nhìn đời, tâm buông bỏ xuống đời hư không không không sắc sắc, không oán hận những oan khiên đã đổ xuống, không mơ tưởng thăng hoa… khi một người đã nghĩ và gởi lại hậu thế tấm lòng hoà giải, “ta về như lá rơi về cội/ bếp lửa nhân quần ấm tối nay/chút rượu hồng đây xin rưới xuống/ giải oan cho cuộc bể dâu này…”


    Không riêng gì đời sau của ông mà những đời sau sau nữa khi đọc những câu thơ này đều gấp sách để thấy mình nhỏ nhoi, vì ông đã đem đi sự lẻ loi. Sự lẻ loi thần thánh vì chưa từng có ai “cảm ơn hoa đã vì ta nở (cho) thế giới vui từ nỗi lẻ loi. Sự lẻ loi đến tận cùng trong nội ngã mới thốt ra được lời cảm ơn đẹp nhất trong thơ ca miền nam, và mãi mãi.

   Ông viết bài thơ “Ta về” năm 1985 sau khi ra tù cải tạo. Chốn xưa, đất nước sau hoà bình trong thi phẩm Ta về như bức tranh khắc hoạ lại quê hương sau chiến tranh. Thời kỳ thứ hai trong thơ ca Tô Thùy Yên vẫn bình thản như đi giữa chiến tranh trong “Chiều trên phá Tam Giang” ông đã viết vào tháng 06 năm 1972, khi cuộc chiến bước vào giai đoạn khốc liệt nhất thì “Ta về” là hoang tàn, đổ nát nhất sau hoà bình. Toàn cảnh đất nước, quê hương sau hoà bình trong Ta về là tư liệu lịch sử, ngoài giá trị áng thơ hay bất chấp thời gian.

   Hai thi phẩm đã khắc hoạ quê hương trong hai giai đoạn của cuộc đời ông, là di sản cho đời sau nhìn lại, suy tưởng về chiến tranh và hoà bình trên đất nước Việt Nam.


   Tôi biết ơn thi sĩ Tô Thùy Yên với câu thơ “cảm ơn hoa đã vì ta nở/ thế giới vui từ nỗi lẻ loi…” vì như mọi khúc mắc trong lòng đều thông thoáng hơn khi bớt tự cao tự đại. Khi người ta không còn nghi ngờ sự nhỏ nhoi của bản thân thì ai cũng khiêm tốn, khiêm nhường hơn, cuộc sống bỗng thênh thang hơn chen chân trên đường danh vọng hẹp hòi… Người độ lượng đến đâu thì có thể cảm ơn hoa vô điều kiện?

   Nhưng khi ca nhạc sĩ Nhật Trường Trần Thiện Thanh qua đời, nhiều báo đài đã đánh giá bài hát “Chiều trên phá Tam Giang” là một trong những bài hát hay nhất của cố ca nhạc sĩ. Tôi đồng ý hai tay, nhưng cảm thấy bất ổn vì đó là thơ Tô Thùy Yên, Nhật Trường phổ nhạc. Một tác phẩm thơ-ca đi vào lòng người, mang giá trị văn học nghệ thuật, giá trị lịch sử thì cần được rõ ràng là thơ phổ nhạc chứ không thể thiếu cẩn thận gây hiểu lầm cho đời sau. Cứ nói trên đài, viết trên báo mỗi Nhật Trường với ca khúc bất hủ “Chiều trên phá Tam Giang” như một tưởng niệm ông, vinh danh ông… Không sai, không sai, ca nhạc sĩ Nhật Trường Trần Thiện Thanh rất xứng đáng được tưởng niệm, được vinh danh. Nhưng riêng về ca khúc “Chiều trên phá Tam Giang” cần nói rõ trên đài, ghi rõ trên báo là “Thơ Tô Thùy Yên, Nhật Trường phổ nhạc”.

   Nhưng ca nhạc sĩ Nhật Trường Trần Thiện Thanh đã đi rồi. Một người lính cũ được đồng đội và người dân miền nam yêu mến cũng như tôi . Tôi yêu mến ông vì tôi chưa từng thấy ai hát bài “Biển mặn” hay hơn Nhật Trường vì ai cũng thua ông cái điệu rất đàn ông làm mê hoặc chị em phụ nữ trong bài hát ấy. (Thêm một chuyện vui nho nhỏ. Ở Dallas có cha Minh, cha xứ của giáo xứ Thánh Phê rô Garland hát bài Biển mặn là lúc hội trường im lặng nhất vì cha hát quá hay, nhưng cha không điệu được như Nhật Trường nên cha hạng hai. Thầy trụ trì chùa Đạo Quang là thầy Tịnh Đức cất tiếng hát bài “Rừng lá thấp” là sự im lặng bao trùm tất cả, nhưng thầy cũng hạng hai vì hạng nhất ca nhạc sĩ Nhật Trường Trần Thiện Thanh đã đem đi rồi. Ông không phải là người thích ngộ nhận, nhưng chính những người mến mộ ông đã ngộ nhận thì đúng hơn! Anh chị em làm truyền thông ở Dallas như đồng thuận với nhau vậy.) Thầy Tịnh Đức cũng đã lên chức Cố Hoà Thượng vì bạo bệnh. Lịch sử tham lam đã bốn ngàn năm đưa vào lịch sử những nhân tài, nhưng vẫn thâu phục những người đáng kính để cõi trọc ngày càng trọc hơn…
   …
   Nhà thơ Tô Thùy Yên với “Ta về”, “Chiều trên phá Tam Giang”, “Trường Sa hành”, “Hề, ta trở lại gian nhà cỏ” và nhiều bài thơ khác có sức sống mãi trong lòng người đọc yêu văn chương miền nam. Nhưng rồi ông cũng qua đời ngày 21 tháng 05 năm 2019 ở Houston, Texas hưởng thọ 81 tuổi.

    Tôi tin ông sẽ lên trời vì trái tim ông đẹp quá và độ lượng khó sánh. Nhật Trường Trần Thiện Thanh vì bạo bệnh mất sớm, nhưng sống lâu không bằng để lại được cho đời những gì sau khi qua đời thì người ca nhạc sĩ tài hoa này cũng được mãn nguyện nơi suối vàng.

   Những người lính cũ đã yên nghỉ, một giai đoạn lịch sử đã đi vào lịch sử. Phá Tam Giang là một địa danh ở Quảng trị được nhiều người biết đến qua câu ca dao, “Thương em anh cũng muốn vô/ sợ truông nhà Hồ sợ phá Tam Giang…” Truông nhà Hồ và Phá Tam Giang bây chừ teo hẹp lại do người dân khai hoang. Dù “Phá Tam Giang ngày rày đã cạn/ truông nhà Hồ nội tán cấm nghiêm…” Nhưng cho dù truông nhà Hồ với Phá Tam Giang không còn trên thực địa thì phá Tam Giang đã bất tử qua bài thơ “Chiều trên phá Tam Giang” của Tô Thùy Yên, cộng hưởng phổ nhạc của Nhật Trường cũng rất hay nên hai ông đều có công lớn với văn học nghệ thuật nước nhà. Không cần lo hậu sự như Tố Như tiên sinh lo xa sau khi viết truyện Kiều, “Thế nhân tam bách dư niên hậu/ thiên hạ hà nhân khấp Tố Như…” Bài thơ, bản nhạc “Chiều trên phá Tam Giang” tự thân mang giá trị lịch sử trung thực trong tuần hoàn vũ trụ chỉ có lịch sử trung thực tồn tại. Hành tinh này vỡ tung do con người hay thiên nhiên thì lịch sử trái đất vẫn còn đó trong thiên hà, trong vũ trụ vì sự bất hoại của trung thực.
  
   Hậu bối cớ chi phải bận lòng về tác giả tác phẩm “Chiều trên phá Tam Giang” khi bỗng minh tỏ được qua một việc nhỏ  từ nghiềm ngẫm câu thơ “cảm ơn hoa đã vì ta nở…”

   Tôi thường đi câu cá những lúc rảnh, bỗng thấy bên bụi cây dại ven hồ có cây hoa khẳng khiêu vươn lên đón nắng mặt trời, một bông hoa lạ nhưng rất đẹp, ngửi mùi cũng đê mê vì khó tả nên mượn lời nhà thơ Nguyễn Bính để diễn tả cho đúng được phần nào là “hương đồng cỏ nội” bởi bông hoa đơn sơ mộc mạc nhưng hương hoa quyến rũ trong tiết xuân về… Rồi mùa thu đến, hoa đã tàn bên đời hiu quạnh, bên hồ cô lẻ. Mùa đông lạnh không em thì em ở nhà có máy điều hoà còn lạnh teo nói gì hoa ngoài hồ một mình với tiếu đông phong. Nghĩ thế từ mùa thu năm ngoái nên tôi tuốt mớ hột đen trên cánh hoa tàn, đem rải dọc đường mòn băng qua bãi cỏ từ bãi câu ra chỗ đậu xe. Năm nay xuân đã về, sáng nay được một ngày nắng và trời không lạnh lắm. Tôi trở lại bãi câu vì thèm ăn cá mà ngoài chợ cá lên giá còn hơn con gái, cá tripper bass hôm nay ngoài chợ bán mười đồng một pound thì cắt cổ quá đi nên tôi đi câu. Nhưng niềm vui hơn được cá là hoa năm ngoái đã mọc trên lối đi quen… khà khà, hoa đào năm ngoái đây rồi. Rồi hoa sẽ ra nụ chừng tháng ba ấm trời, tháng tư mưa nhiều hoa trổ mã vươn cao, tháng năm hoa nở, tháng sáu kiêu sa, tháng bảy mặn mà, tháng tám ong bướm, tháng chín bói hạt, tháng mười sương sa… mùa lạnh lại về, đông tàn một đời hoa... Thôi thì vui đi khi hoa đã nẩy mần lên cây, xanh như mạ non. Hãy vui từng tháng thấy hoa trưởng thành tới lạnh hãy hay. Đừng suy nghĩ nhiều nên chợt hiểu đạo lý của cuộc sống: Hoa tên gì đâu quan trọng, ai tuốt hạt khô đem rải trên đường mòn cũng không cần biết tên. Điều quan trọng là từ một bông hoa dại ven hồ nhưng hữu sắc thiên hương nay đã thành loài hoa lác đác ven đường mòn, sang năm nữa, năm nữa… bãi câu có đường hoa khiêm tốn như hoa đồng nội nhưng đặc biệt là ở những nơi khác không có. Thơ-nhạc cùng vậy thôi, là cái đẹp trên đời cần tồn tại và phát triển, ai là tác giả, ai là người phổ biến đều không quan trọng; quan trọng là cái đẹp trong đời sống không mất đi mà phát huy… Tôi thầm mang ơn cố thi sĩ Tô Thùy Yên đã viết, “Cảm ơn hoa đã vì ta nở” Bông hoa dại còn không so đo người cảm ơn có đáng mặt không thì lòng người tự biết mình nhỏ mọn dường nào!

   Tôi hiểu hơn về lời thơ phổ nhạc trong Chiều trên phá Tam Giang, “nhớ, ôi niềm nhớ đến bật tận…” như tôi đã nhớ một thời… thành nhớ một đời bất chấp thời gian vì nhớ đã sẵn trong gặp như Thanh Thâm Tuyền nhớ, “ôm em trong tay đã nhớ em những ngày sắp tới…” Nên tôi thích “Chiều trên phá Tam Giang”, thích lời thơ phổ nhạc, ‘Nhớ, ôi niềm nhớ đến bất tận…” nhớ như người lao công quét dọn hành lang nhớ thương xá đã đóng cửa… Tôi sẽ nhớ mãi thơ-nhạc làm cho cuộc sống thăng hoa, không quan trọng chuyện tác giả tác phẩm. Tôi như viên kẹo nhỏ/ lóc cóc trong miệng em. Em như cây nến đỏ/ thắp sáng linh hồn tôi… là thơ ai không quan trọng vì kẹo tan, nến tàn trong đời người ngắn ngủi. Thậm chí chưa nhắm mắt xuôi tay mà kẹo đã không còn dư hương, nến đã tắt đêm trường tăm tối. Chút hư danh trên đời có nghĩa gì đâu để phải rõ ràng danh phận. Làm đẹp cho đời quan trọng hơn ai là tác giả, cảm ơn hoa vì hoa cũng không biết xuất xứ của mình nhưng làm đẹp cho đời vô điều kiện nên hoa được người hiểu hoa nói lời cảm ơn từ trái tim độ lượng, lòng vị tha, nhân cách lớn…
 
Phan
 
(*Viết chưa xong bài viết hàng tuần đã nhận tin nhà thơ Phan Xuân Sinh vừa qua đời ở Houston do bệnh tim mạch ngày 28 tháng 02 năm 2024. Thêm một người anh xứ Quảng ra đi. Cha sanh mẹ đẻ anh nguyên vẹn, nhưng chiến tranh đã lấy mất của anh một bên chân khi anh làm sĩ quan Thám báo bên bờ sông Thạch Hãn năm 1972. Anh không oán hận gì vì từ trong khói súng mịt mù của mùa hè đỏ lửa anh đã từng viết cho người lính Bắc phương, “Nếu có thể ta gầy thêm cuộc nhậu/ bày làm chi trò chơi xương máu/ để đôi bên thêm mầm mống hận thù/ ta chán lắm rồi ba chuyện ruồi bu/ chỉ có bạn, có ta là người thua cuộc…”
   Bây chừ thì anh đã có thể đi uống rượu thoải mái với những người anh em bên kia chiến tuyến cho thoả lòng anh không thích hận thù, tâm anh chỉ thấy anh em một nhà chém giết lẫn nhau làm đau lòng cha ông dựng nước…
   Chúc anh lên đường khoẻ nhẹ tâm linh sau cuộc đời nhiều uẩn khúc, thiệt thòi với chiến tranh và hoà bình trên quê hương chúng ta. Cảm ơn anh đã để lại cho đời, cho những thế hệ sau trái tim nhân hậu, lòng vị tha và ước nguyện hoà bình của một người con xứ Quảng, một nhà thơ đi giữa chiến tranh không hận thù…
 
   Kính bái nhà thơ xứ Quảng, người lính Cộng Hoà Phan Xuân Sinh
   Tiểu đệ
   Phan
 
***************************
Bài thơ, “Uống rượu với người lính Bắc phương” của Phan Xuân Sinh.

hãy rót cho ta thêm cốc nữa đi
ngồi với bạn hôm nay làm ta hứng chí
chuyện ngày mai có chi đáng kể
dẹp nó đi cho khỏi bận tâm
thằng lính nào mà không rét lúc ra quân
khi xung trận mà không té đái
ta cũng có người yêu nhỏ dại
mỏi mắt trông chờ song cửa quê nhà
chuyện sống chết căn bệnh trầm kha
đâu dễ gì thoát vòng sinh mệnh
những thằng lính thời nay không mang thù hận
bạn hay thù chẳng một lằn ranh
thôi hãy uống. Mọi chuyện bỏ lại sau
nếu có thể ta gầy thêm cuộc nhậu
bày làm chi trò chơi xương máu
để đôi bên nuôi mầm mống hận thù
ta chán lắm rồi ba chuyện ruồi bu
chỉ có bạn, có ta là thua cuộc
người yêu của bạn ở ngoài phương Bắc
giờ này đang hối hả tránh bom
hay thẩn thờ dõi mắt vào Nam
để chờ người yêu mình trở thành liệt sĩ
rồi cũng sẽ quên, như bao điều suy nghĩ
tình yêu như một thứ điểm trang?
che đi chút dối lòng

uống với bạn đêm nay ta phải uống thật say
để không phải còn nhìn nhau hận thù ngun ngút

(những ngày đầu xuân 1972)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.