Hôm nay,  

Đi thăm Làng Hồ, Làng Đuôi

11/03/202414:19:00(Xem: 3130)
toi
Các cháu mồ côi người Thượng đi học về, Yá (Sơ) Lach, và chúng tôi.


Tôi xin kể bạn nghe câu chuyện về hai ngôi làng, một của người Bahnar và làng kia của người J’rai trên vùng cao nguyên Trung phần Việt Nam, bây giờ được nhập chung là tỉnh Gia Lai-Kontum. Nói rõ hơn một chút, Làng Hồ, ngôn ngữ Bahnar là Kontum; Làng Đuôi, tiếng J’rai là Pleiku. Kon là ngôi “Làng”, Tum là cái “Hồ”. Kontum nghĩa là Làng Hồ. Plei là ngôi “Làng”, Ku là cái Đuôi. Pleiku nghĩa là Làng Đuôi. Những người sống trong hai ngôi làng này được gọi là dân Làng Hồ và dân Làng Đuôi.
    Cuối năm 2022, tôi và vài người bạn có dịp về thăm lại chủng viện Thừa Sai Kontum, nơi chúng tôi trải qua một thời hoa niên êm đềm trong những năm trung học. Một ngôi nhà rộng lớn, hai tầng và một tầng hầm, có tuổi đời gần 100 năm, được xây dựng bằng gỗ và đất bùn trộn rơm, với mái ngói đỏ thắm, lối kiến trúc pha lẫn nét Tây phương và dáng vẻ một ngôi nhà Sàn của đồng bào Thượng Bahnar. Chúng tôi đã sống, đã học hành trong ngôi trường đẹp đẽ thân yêu đó cho đến khi biến cố năm 1975 xảy ra.
    Đầu năm 2024, dịp may lại đến khi vợ chồng người bạn, cô NL và anh L có nhã ý muốn góp một ít tiền bạc của anh chị em trong gia đình họ để làm việc từ thiện và anh chị đã chọn Làng Hồ và Làng Đuôi. Chúng tôi nói chuyện với nhau và NL sẽ thay mặt gia đình đi với chúng tôi về hai ngôi làng này để được tận mắt thấy những gì đang xảy ra nơi đây. Chúng tôi đi vào những buôn làng xa xôi, làng phong cùi, và những nơi bị quên lãng, nơi mà ánh sáng văn minh không rọi tới, nơi mà những người bình thường như chúng ta ít khi hoặc chưa bao giờ nghe nói đến.
    Trước đây khi còn đi làm, tôi suy nghĩ rất đơn giản về việc làm từ thiện. Mỗi năm cứ gởi một số tiền cho KMF, Kontum Missionary and Friendship (1), một hội đoàn mà tôi tin tưởng, rồi phó mặc cho họ muốn làm gì thì làm. Nhiệm vụ của mình vậy là xong. Luơng tâm yên ổn và bình thản vì mình đã có chút gì đó đóng góp cho xã hội, cho người nghèo, và cho người kém may mắn hơn mình. 
    Bây giờ, khi đích thân lặn lội đến tận nơi, mắt thấy, tay sờ, tôi mới cảm nhận được sự thay đổi lớn lao trong tâm hồn mình. Chuyến đi này đã chuyển biến tâm hồn tôi từ một người cái gì cũng theo một lối mòn xưa cũ: ai làm gì, mình cũng làm theo cho có với người ta, cho xong bổn phận một người có đạo, một người có tấm lòng. 
    Chúng tôi được Yá (2) Lach, một Sơ người Thượng phụ trách nhà Mồ Côi Vinh Sơn ở làng Dak Ro Wa, trán đẫm mồ hôi vì đang cho heo ăn, Yá dẫn chúng tôi đi theo một lối mòn nhỏ trong khu rừng cao su của nhà nước. Yá nhìn đồng hồ tay và nói chắc các cháu cũng sắp đi học về. Chỉ vài phút sau, chúng tôi nhìn thấy một đàn trẻ em, hầu hết là bé gái, tuổi từ 7 đến 10, đang tung tăng bước trên con đường đất đầy bụi đỏ. Khi thấy chúng tôi, các cháu khoanh tay lại cúi chào và nói to “Chúng con xin kính chào chú, chào các cô”.
    Chúng tôi cũng chào lại và xoa đầu các cháu, chúng ôm lấy chúng tôi, tôi cảm nhận được vòng tay nhỏ bé đang khao khát một tình thương gia đình êm ấm; tôi ôm lấy đôi vai gầy guộc, ngón tay chạm được bờ vai xương xẩu của các cháu. Trái tim tôi nhói lên. Tôi bỗng thấy nao nao và ray rức cõi lòng. Tôi cố nuốt giọt lệ sắp chực chờ tuôn rơi. 
    Khi phát quà cho các cháu gái là những con búp bê đủ màu sắc, nhìn ánh mắt các cháu sáng lên niềm vui hạnh phúc và đôi bàn tay nhỏ bé của các cháu ôm lấy búp bê vào lòng mà chúng tôi không dằn được cảm xúc. Cô bạn NL tiến đến gần một em bé và hỏi sao con không mở gói quà, lấy búp bê ra chơi? Cháu rụt rè thưa: "Con sợ nó sẽ bị cũ đi".
 
blank
Các cháu gái vui mừng lần đầu tiên, tuổi thần tiên các cháu có được búp bê. Các cháu trai có đồ chơi xe hơi. Đa số các cháu mặc quần áo “si đa”, có cháu mang dép quá khổ, có cháu chân không dép. 
 
Đôi mắt các cháu, những đôi mắt đen trong trẻo chưa vương bụi đời, những đôi mắt thánh thiện chan hòa nắng ấm, những đôi mắt có cả màu xanh của rừng núi đại ngàn, thanh khiết mênh mông, mà sao lại như ẩn khuất một nỗi buồn mênh mang. Tôi nhận ra đó là nỗi buồn của những đứa trẻ không cha không mẹ, nỗi buồn thiếu vắng một mái ấm gia đình. 
 
blankRau do các Yá và các cháu lớn tự trồng để cải thiện bữa ăn.

blank
Xe cải tiến để các cháu lớn chuyên chở lúa, rau, khoai tự trồng.                                           
  
blank
Các cháu lớn đi kiếm củi về.
 
Sau này tôi mới tìm hiểu tại sao các cháu mồ côi đa số là con gái mà lại ít con trai. Người Thượng theo chế độ Mẫu Hệ nên con gái được chú ý và được ưu tiên hơn con trai. Họ lại có hủ tục kỳ lạ như nếu người mẹ mới sinh con nhỏ, chẳng may mẹ bệnh chết, đứa con sẽ bị chôn theo người mẹ. Hội KMF là một tổ chức từ thiện của giáo hội Công Giáo thuộc địa phận Kontum. Các thiện nguyện viên của hội thường xuyên đi vào làng Thượng và hợp tác chặt chẽ với các linh mục coi xứ để giúp đỡ cả về vật chất lẫn tinh thần. Khi hay tin có trẻ phải bị chôn theo người mẹ, họ can thiệp và xin những đứa trẻ này về cho các Yá ở nhà Mồ Côi nuôi dưỡng.
    Năm 2022, tôi về lần đầu và đã vào làng Thượng thăm người bạn cùng lớp làm linh mục đang coi một giáo xứ Thượng rất nghèo. Tôi chứng kiến người Thượng đang bị đẩy lùi sâu vào rừng, không còn đất canh tác, không còn lúa bắp đủ ăn. Năm nay tôi quyết định dành thêm thời gian đi vào sâu hơn trong rừng và đi nhiều nơi hơn, tôi mới thấy được họ sống cơ cực đến mức nào.
    Yá Lach kể một câu chuyện pha chút hài hước và bi thương. Không có đất trồng trọt lại thêm thiếu hiểu biết, gia đình kia có đến 18 đứa con, họ cứ “ăn rồi đẻ cho đến hết trứng thì thôi”. Đẻ xong, không nuôi nổi, họ đem cho các Yá đem về nuôi dùm. Cứ như vậy, các nhà mồ côi vừa nhận các cháu không cha mẹ và nhận cả các cháu mồ côi “tỵ nạn kinh tế”.
    Trong kinh 14 Mối đạo Công Giáo, có 7 Mối dạy về thương người mà trong đó có 3 Mối rất thực tế: thứ nhất cho kẻ đói ăn, thứ 2 cho kẻ khát uống, thứ 3 cho kẻ đói rách ăn mặc. Con người khi đói, cho họ ngắm nhà thờ xây cao to để làm chi? Chi bằng ta cho họ cái ăn, cái mặc, cái áo ấm khi mùa đông cao nguyên tràn về. Đó là những cử chỉ thiết thực nhất của một người biết san sẻ yêu thương.
    Bok Binh, người bạn linh mục đang coi xứ Kon Mahar tâm sự: bị chính phủ quên lãng, nếu muốn giúp họ, phải có kế hoạch lâu dài là cố gắng giúp người dân nâng cao nhận thức và thay đổi cách sống bằng cách giúp con em họ đi học, mà đi học phải có nơi ăn ở, phải có thuốc men và rất nhiều nhu cầu khác; nếu ở nhà, cha mẹ vui thì cho đi học, buồn thì ở nhà ẵm em, đi rẫy, hay đi lấy nước. Sau này, có kiến thức, các cháu sẽ trở về và phục vụ cho chính bản làng của mình, chứ chúng ta không thể nào cứ cho họ con cá mãi được, phải giúp họ cái cần câu. 
 
LÀNG HỒ, KONTUM
 
Theo truyền thuyết về Làng Hồ thì ngày xa xưa lắm, con sông Dakbla là con sông chính chảy giữa, chia đôi hai ngôi làng Bahnar và làng J’rai, làng bahnar ở đầu nguồn và làng J’rai ở cuối nguồn.  Một chàng trai J’rai đem lòng yêu thương một cô gái Bahnar đầu nguồn, bên kia bờ. Thời gian này, hai làng đang có chiến tranh với nhau, hận thù ngút trời. Hai người yêu nhau say đắm như mối tình Romeo và Juliet cách đây vài thế kỷ ở phương Tây.
    Khi núi rừng khoác lên mình lớp áo mùa Thu vàng rực rỡ, khi mùa màng đã gặt hái xong, ánh trăng trải một màu vàng nhạt trên huyền ảo trên núi đồi, chàng trai bơi qua sông tìm đến với người mình yêu, cả hai cùng tận hưởng vị ngọt ngào và cả vị đắng của tình yêu, họ trao cho nhau biết bao lời thề hứa dưới sự chứng giám của Yàng và sự bao la, bàng bạc của hồn thiêng sông núi.  
    Khi quá tuyệt vọng vì biết mối tình của họ chắc chắn sẽ chẳng được buôn làng chấp nhận, họ lại hẹn nhau vào một đêm trăng sáng sẽ ra sông, nàng bên bờ này, chàng bên bờ kia, đúng vào lúc mây che mờ vầng trăng, sẽ cùng nhau tự sát bằng dao và cùng nhảy xuống sông để cùng được chết bên nhau, hy vọng sẽ hóa giải được mối thù hận giữa hai buôn làng.
    Dòng máu chàng trai J’rai ngược dòng nước, chảy về phía thượng nguồn tìm về nơi cô gái Bahnar ở. Dòng máu của nàng chảy xuôi dòng về phía ngôi làng của chàng trai. Đến giữa sông thì hai dòng máu gặp nhau, máu chàng quyện vào máu nàng rồi chảy ngược dòng về phía thượng nguồn. Máu của hai người yêu nhau nhuộm đỏ nước sông Dakbla. Lạ thay, hai bên bờ sông trước đây thẳng tắp, nay bỗng biến thành quanh co, uốn khúc như minh chứng cho mối tình đau thương và trắc trở của cặp tình nhân .
    Ngày hôm sau, khi dân làng ra sông lấy nước, họ thấy nước sông đỏ ngầu mà nước lại chảy ngược giòng. Khi các trưởng làng hai bên bàn bạc với nhau và biết được uẩn khúc tình yêu của đôi trai gái, họ ngồi xuống bên ghè rượu Cần, cùng uống và cùng khóc với nhau, quyết định gạt bỏ quá khứ hận thù, kết nghĩa anh em. Từ đó hai làng sống hòa thuận yêu thương trong hòa bình cho đến bây giờ, nhưng dòng sông không bao giờ đổi dòng được nữa. 
    Ngày nay, du khách có dịp đến Kontum, xe chạy đến cầu sông Dakbla, trước khi vào thành phố, xin hãy ngừng xe, đứng bên thành cầu nhìn xuống giòng sông đỏ phù sa chảy ngược dòng, dành một phút để lòng tưởng nhớ và tìm về mối tình Romeo và Juliet của Làng Hồ và Làng Đuôi. 
 
Nguyễn Văn Tới
 
Tham khảo:
 
 
Chú thích:
 
Yá trong ngôn ngữ Bahnar nghĩa là Ma soeur. Bok nghĩa là Cha.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chị Hai đã uống một ly nước đầy và đi làm việc tiếp. Đoan vào lại chỗ của mình. Như một phản xạ, Đoan lại cho tay vào túi, làm như tìm xem trong đó có sót lại một viên kẹo chăng. Mơ hồ, Đoan nhớ ngày xưa Đoan hay ví một hành động “vớt vát” nào đó như là “tìm con cá sót lại trong chiếc giỏ của cô Tấm.” Mắt Đoan cay cay. Bỗng như thấy mình đang đi vào lại đường cây còng. Mùa mưa, những chiếc lá trên cao đọng nước, rũ nhè nhẹ xuống tóc Đoan, nghe mát. Hai túi áo blouse lúc nào cũng đầy kẹo. Đoan vào trại bệnh. Những dãy giường đầy người. Thay băng xong cho ai, Đoan tặng người ấy một viên kẹo
Ở đây tôi chỉ muốn đưa một vài nét chính của các môn Khí công mà tôi đã tập qua, để người đọc theo đó sẽ chọn được một môn pháp thích hợp cho mình tập. Chả thế người xưa thường hay nói “Tùy bịnh chọn công“, tùy theo thể chất và sức khoẻ mà chọn cách tập Khí công.
Ngày tựu trường năm nay, trường Việt Ngữ Suối Mở Offenbach đón tiếp 14 học trò mới với tuổi tác, trình độ tiếng Đức, tiếng Việt chênh lệch khá nhiều. Tạm thời, cô giáo gọi lớp này là Lớp Mới. Giờ học đầu tiên, cô giáo chưa thực sự “dạy” chữ, chỉ “dỗ” các học trò. Hy vọng học trò sẽ thấy học tiếng Việt không khó lắm và tìm thấy niềm vui khi đến trường Việt Ngữ mỗi thứ Bảy. Chờ cho học trò tìm chỗ ngồi xong, cô giáo giới thiệu mình, và tập cho học trò chào hỏi. Nghe các em đồng thanh: “Con chào cô giáo”, lòng cô giáo rộn lên niềm vui, liên tưởng câu châm ngôn “tiên học lễ, hậu học văn” mình được học ngày xưa.
Cô vẫn nhìn thẳng phía trước, không nhìn ngang nhìn ngửa. Anh liếc nhìn cái túi xách giữa hai đùi cô, thấy cộm lên, nghĩ rằng trong ấy có một khẩu súng ngắn, đã lên đạn, lát nữa sẽ kề vào thái dương của anh. Anh nín thở.
Tháng tư 1976, sau một mùa đông ở North Dakota, vừa có bằng lái xe, tôi bỏ việc, bỏ lại một vùng quá bình an, quá tử tế, nhưng cũng quá cô quạnh này, đi thẳng về hướng tây...
“Anh nhớ đến dự lễ trao đẳng cấp Đại Bàng cho thằng con em nha! Để mừng cho em và cháu…” Tôi nhận được điện thoại như vậy từ C., một người bạn trẻ có con trai là hướng đạo sinh thuộc Liên Đoàn Trường Sơn, được nhận danh hiệu Đại Bàng vào ngày 16/08/2025. Đã lâu rồi, kể từ khi hai thằng con ngưng sinh hoạt hướng đạo để đi học đi làm, tôi không có dịp trở về thăm lại liên đoàn. Công việc thì nhiều, thời gian thì ít. Nhưng lần này thì không từ chối được rồi!
Đó là tháng 6-1989, lần đầu đến New York và vào một bảo tàng viện nổi tiếng ở đây, tôi tình cờ, tới chỗ treo một bức tranh trừu tượng khổng lồ, cao khoảng 2 mét, ngang khoảng 6 mét. Tôi kinh ngạc với sự giàu có ở đây, bảo tàng viện này dành riêng ra một căn phòng lớn, đơn giản, sang trọng, chỉ để trưng bày một bức tranh đó...
Tôi bị bắt tại huyện Tân Hiệp chiều ngày hai mươi, giáp Tết. Lý do, mang theo hàng không giấy phép. Thế là tiêu tan hết vốn lẫn lời mà tôi chắt chiu, dành dụm gần cả năm nay. Nhớ đến mẹ và gia đình trong những ngày Tết sắp tới, tôi vừa buồn vừa tức đến bật khóc. Xui rủi, biết trách ai. Tiễn, anh phụ lơ, đã cẩn thận cất dấu hàng cho tôi, vã lại anh cũng quá quen biết với đám công an trạm kiểm soát. Không ngờ chuyến nầy bọn công an tỉnh xuống giải thể đám địa phương, nên tôi bị “hốt ổ” chung cả đám. Đây không phải là lần đầu bị bắt, nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi chuyến vốn lớn như vầy. Năm ký bột ngọt, năm ký bột giặt, hơn chục ống thuốc cầm máu và trụ sinh hàng ngoại. Bột ngọt, bột giặt không nói gì, nhưng hai thứ sau hiếm như vàng mà giới “chạy hàng” chúng tôi gọi là “vàng nước”. Nên thay vì đưa về khu tạm giam huyện chờ lập biên bản, hồ sơ xét xử tôi nghe bọn công an thì thầm, bàn tán giải thẳng về khám lớn tỉnh Rạch Giá.
Quỳnh Lâm báo tin sẽ đến Đức trong tuần lễ đầu tháng 10. Nisha vội vàng thu xếp “sự vụ lệnh“ để công du sang Đức. Nisha lo đi chợ sắm sửa đầy mấy tủ lạnh, tủ đá, để mấy cha con sống còn trong thời gian nữ tướng đi xa. Chúng tôi hồi hộp quá, ngày nào cũng thư từ, nhắn nhủ, dặn dò đủ điều tẳn mà, tẳn mẳn. Điện thư qua, về hoa cả mắt. Thư nào chúng tôi cũng nhắc nhở nhau giữ gìn sức khoẻ, vì đứa nào cũng “lão” rồi. Khi gặp nhau, tụi tôi nhất thiết phải đầy đủ tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện. Có hôm, đến trưa, chưa nghe tăm tiếng, tôi sốt ruột, xuất khẩu làm thơ... bút tre:
Sống ở đây an toàn và bình an gần như một trăm phần trăm trong hiện tại và tương lai, nhưng không thể bình thản hóa quá khứ. Cuộc chiến khốc liệt giữa thiên thần và ma quỉ luôn ám ảnh ông. Có những điều gì thao thức, âm thầm nghi hoặc, nhoi nhúc sâu thẳm trong ông. Lòng tin vào ông Gót có phần nào lung lay. Đông cảm thấy có lỗi khi nghi ngờ bố, người đã giúp đỡ, bảo vệ ông và Vá. Nhưng nghi ngờ là một thứ gì không thể điều khiển, không thể đổi đi, không thể nhốt lại. Nó vẫn đến, mỗi lần đến nó vạch rõ hơn, nhưng vẫn mù sương như đèn xe quét qua rồi trả lại sương mù.
Trâm gật đầu nhè nhẹ. Đoan nghĩ thật nhanh đến một cảnh diễn ra mỗi đầu tháng trong sân trường. Nơi đó, các sinh viên xúm xít cân gạo và các loại “nhu yếu phẩm”, mang phần của mình về nhà. Rồi thì trong khu phố, cảnh những người dân xếp hàng “mua gạo theo sổ” cũng diễn ra mỗi ngày. Nói “gạo” là nói chung thôi, thật ra trong đó phần “độn” chiếm đa số. Phần “độn” có thể là bo bo, có thể là bột mì, cũng có thể là khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô. Nồi cơm nấu từ gạo và một thứ khác được gọi là nồi “cơm độn.” Mỗi ngày hai bữa cơm độn. Bo bo thì quá cứng vì vỏ ngoài chưa tróc, nấu trước cho mềm rồi cho gạo vào nấu tiếp, trở thành một “bản song ca” chói tai. Khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô thường bị sượng, ghế vào cơm rất khó ăn. Chỉ có bột mì tương đối dễ ăn hơn, vì người nấu có thể chế biến thành bánh mì, nui hay mì sợi
Mùa đông, tuyết đóng dầy trên mái nhà. Ấy là lúc bà ngoại cũng lo là lũ chim - những con chim của ngoại - sẽ chết cóng. Nhưng bà không biết làm gì để cứu chúng nó. Ngoại đi tới đi lui từ phòng khách qua nhà bếp. Thở dài. Rên rỉ. Rồi lẩm bẩm, “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.” Bà ngoại tội nghiệp những con chim chết lạnh. Sinh nhật ngoại, chúng tôi chung tiền mua quà. Một con sáo trong chiếc lồng tuyệt đẹp. Bà ngoại cưng nó hơn cưng chị em tôi. Cho nó ăn, ngắm nghía bộ lông đầy màu sắc của nó. Chăm chú lắng nghe tiếng hót véo von lúc chớm nắng bình minh và buổi hoàng hôn nắng nhạt. Rồi một buổi sáng nọ tiếng chim thôi líu lo. Bà ngoại chạy ra phòng khách. Hấp tấp tuột cả đôi guốc mộc. Con chim sáo nằm cứng sát vách lồng. Hai chân duỗi thẳng. Cổ ngoặt sang một bên. Con chim của ngoại đã chết. Bà ngoại buồn thiu cả tuần lễ. Bố mẹ tôi bàn tính mua con chim khác. Bà gạt ngang.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.