Hôm nay,  

Những kỷ niệm nơi phòng tranh Trương Vũ

3/11/202414:30:00(View: 2281)
Tạp bút

truongvu

Nhà văn / Họa sĩ Trương Vũ

Ảnh Phạm Cao Hoàng.

 

 

Tối thứ sáu 23/2/2024, chị Duyên gửi cho tôi link bài thơ “Tạm biệt một căn phòng” [1] của anh Phạm Cao Hoàng ghi gửi anh Trương Vũ.
 
Căn phòng này
chiếc bàn này
nơi chúng ta đã từng ngồi
nâng ly
chúc mừng một bức tranh vừa hoàn tất
chúc mừng một cuốn sách vừa in xong
chào mừng một người bạn từ phương xa đến
 
Vâng, tôi vẫn còn nhớ căn phòng mà anh Phạm Cao Hoàng nhắc tới trong bài thơ. Biết thì biết đã lâu. Từ những bài thơ mà họa sĩ Đinh Cường gọi là “Những Đoạn Ghi” anh đã viết thay nhật ký:
 
Như vậy là một ngày Chủ Nhật hạnh phúc
gặp nhau và nói cười cùng nhau, còn chi hơn
... ngồi uống những ly rượu vang ngon, thật ngon
một bàn dài bạn bè quý mến, nhắc lại những
tờ báo đã không còn Văn Học, Hợp Lưu…
bao nhiêu cây viết đã xuất phát từ các sân chơi đó
(Đinh Cường – Từ trưa tới chiều ở nhà Trương Vũ)
 
Một bạn nào đó nói, các buổi gặp gỡ khác
càng ngày càng ít người thì ở Trương Vũ
càng ngày lại càng đông. thật vậy. vẫn chiếc
bàn thật dài trải khăn trắng đầy thức ăn
ngoài món ăn của gia đình. mỗi người còn
đem tới vài ba món tủ. ăn làm sao hết...
(Đinh Cường – Và một buổi gặp gỡ đông vui trưa thứ Bảy ở nhà Trương Vũ)
 
Nhưng lần đầu tiên tôi có mặt, lại là một ngày thật buồn 13-1-2016 – tang lễ của họa sĩ Đinh Cường. Anh Trương Vũ đã mời tất cả mọi người sau buổi lễ đến nhà anh. Ở đó ngoài những người tôi đã gặp buổi tối hôm trước ở nhà anh chị Phạm Cao Hoàng, các anh Trần Hoài Thư, Lữ Quỳnh, Nguyễn Đình Thuần, Nguyễn Trọng Khôi, Chân Phương, Nguyễn Minh Nữu, anh chị Đỗ Thanh Tùng,  các bạn Nguyễn Thị Thanh Bình, Bạch Mai, có thêm các anh Nguyễn Tường Giang, Nguyễn Mạnh Hùng, Phạm Nhuận, Hồ Đình Nghiêm, và các bạn Đinh Từ Bích Thúy, Quỳnh Loan...  Nhiều lắm, tôi không thể nhớ hết tất cả tên từng người...
       Chúng tôi nâng cốc rượu nhớ về người đã khuất nhưng cứ ngỡ người họa sĩ thân thương vẫn quanh đây cùng thân hữu họp mặt, trong tiếng đàn hát đầy xúc động của họa sĩ Nguyễn Trọng Khôi khúc réquiem “Giấc mộng trên đồi thơm” [2] do chính anh sáng tác tặng anh Đinh Cường. Ôi cuộc đời quá ngắn. Ôi mộng ngoài tay với. Bạc đầu ước mơ, mỏi chồn gối chân. Còn đi đến đâu cuộc đời...  Thôi về lại bóng tối. Thôi về lại mây khói. Để sương trắng bay lạc vào giấc mơ, lạc về cõi xa, xa mù...
       Và lần gần nhất tôi đến nơi đây là trước đại dịch Covid-19. Anh Trương Vũ hẹn bạn bè vào lúc 1:00 giờ trưa ngày thứ bảy 29-6-2019, để cùng chia sẻ cuốn sách “Đuổi Bóng Hoàng Hôn” [3] của anh mới phát hành. Buổi họp mặt đông vui có quý anh Đặng Đình Khiết, Nguyễn Mạnh Hùng, Nguyễn Tường Giang, Nguyễn Trọng Khôi, Nguyễn Quang, ..., quý anh chị Phạm Cao Hoàng, Nguyễn Minh Nữu, Đỗ Thanh Tùng, Phạm Nhuận, chị Lãm Thúy và quý bạn Nguyễn Thị Thanh Bình, Hoàng Thị Bích Ty, Đinh Từ Bích Thúy, Quỳnh Loan, Đinh Trường Chinh, Phạm Phú Thiện Giao và cả Nguyễn Thị Hậu ở Việt Nam nhân chuyến sang thăm Hoa Kỳ. Hôm đó cùng anh chị Tùng – Duyên và anh Phạm Cao Hoàng, chúng tôi đã ở lại nhà anh Trương Vũ lan man nói chuyện văn học đến khi chiều đã hết và bóng đêm dần xuống. Tôi hỏi anh Trương Vũ về nhà thơ Nguyễn Đức Sơn (NĐS), người bạn học có cá tính rất đặc biệt của anh. Anh tâm sự nhà thơ NĐS tuy bề ngoài trông rất phức tạp, nhưng là một người chơn chất, một tài năng của văn học Việt Nam. Có thể nói NĐS là một mẫu nghệ sĩ và trí thức rất hiếm hoi, dám sống và nói thật về điều mình tin, nhất là trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam của vài chục năm qua...
 
truongvu 1Một buổi gặp gỡ ở phòng tranh Trương Vũ.
(Vienna, Virginia, 29.6.2019 – Tư liệu Phạm Cao Hoàng)
 
Rồi đại dịch xảy ra. Như anh Phạm Cao Hoàng đã viết trong bài thơ “Bốn năm sau ngày anh Đinh Cường ra đi”:
 
bốn năm sau ngày anh Đinh Cường ra đi
miền Đông xơ xác trong cơn đại dịch
muốn đến Studio Trương Vũ xem những bức tranh mới vẽ nhưng không thể
muốn nâng ly cùng các anh Nguyễn Mạnh Hùng, Nguyễn Tường Giang, Phạm Nhuận, Đặng Đình Khiết, Phạm Thành Châu... nhưng không thể
muốn cụng ly cùng các bạn Nguyễn Minh Nữu, Nguyễn Quang, Nguyễn Thị Thanh Bình, Trần Anh Chương, Đinh Trường Chinh... nhưng không thể
các bạn tôi, nhà nào cũng đóng cửa
stay-at-home, stay-at-home, stay-at-home
 
bốn năm sau ngày anh Đinh Cường ra đi
miền Đông bây giờ tiêu điều trong cơn đại dịch
hàng quán im lìm phố xá hoang vu
muốn ghé Starbucks ngồi nhâm nhi một ly cà phê nhưng không thể
drive-thru only...
 
Buồn. Tất cả mọi người đều buồn. Chúng tôi hẹn nhau sau đại dịch sẽ là một ngày hội ngộ anh em. Nhưng đến nay dịch ấy chưa dứt hẳn vẫn còn những biến thể tiếp tục lây lan, chị Duyên và tôi lại ở xa, nên chúng tôi cũng chưa về Virginia thăm các anh chị...
 
Căn phòng này
không gian này
nơi có người họa sĩ
trầm ngâm ngồi trước giá vẽ
thả hồn vào nỗi đam mê
...
nhớ không Duyên?
nhớ không Nguyệt Mai?
nhớ không Cúc Hoa?
và nhớ không các bạn của tôi?
 
Có thể nói họa sĩ Trương Vũ là người tự nguyện thực hiện những chân dung bạn bè nhiều nhất, với một danh sách rất dài: Đặng Đình Khiết, Lê Xuân Khoa, Nguyễn Ngọc Bích, Đinh Cường, Nguyễn Tường Giang, Nguyễn Mạnh Hùng, Lê Văn Khoa, Nguyễn Xuân Thiệp, Phạm Nhuận, Hoàng Khởi Phong, Nguyễn Minh Nữu, Phạm Cao Hoàng, Hoàng Xuân Sơn, ... Nhớ lần anh Trương Vũ hẹn chị Duyên và tôi đến để anh vẽ chân dung cho hai đứa vào khoảng giữa tháng 10/2017. Giữa trăm công ngàn việc bộn bề với quỹ thời gian không phải là bất tận mà anh vẫn dành cho chúng tôi, những đứa em ở xa, những tình cảm đặc biệt khi chọn vẽ... Anh còn đề nghị chị Duyên và tôi đến nhà anh, anh chị sẽ lo cả việc ăn ở cho chúng tôi trong thời gian này. Nhưng anh chị Phạm Cao Hoàng luôn rất dễ thương và chân tình với bạn bè, đã ngỏ lời, “anh Trương Vũ đã lo phần vẽ rất mệt rồi, Duyên và Nguyệt Mai sẽ ở tại nhà Phạm Cao Hoàng...” Anh chị và cháu Thiên Kim đã rất tận tình, chu đáo lo tất cả cho chúng tôi được thoải mái trong thời gian ở đây... Làm sao chúng tôi có thể quên được những ân tình quý giá này?
 
Căn phòng này
chiếc bàn này
không gian này
chiều nay
tôi ngậm ngùi tạm biệt.
 
Có quá nhiều kỷ niệm. Hỏi sao anh không rưng rưng khi một mai anh chị sẽ đến một nơi khí hậu ấm áp hơn, thích hợp hơn cho sức khỏe của anh chị. Chỉ là tạm biệt nhưng sao lòng buồn quá đỗi. Không là ruột thịt và chỉ quen anh mấy năm sau này, nhưng chúng tôi rất kính quý anh. Ở anh, tôi thấy được tấm lòng nhân hậu, chung thủy, hết lòng với gia đình, bạn bè, cùng một tình yêu vô bờ bến với quê hương, đất nước. Trên trang tiểu sử ở blog Phạm Cao Hoàng, tôi được biết anh Trương Vũ tên thật Trương Hồng Sơn, tốt nghiệp Cử Nhân Giáo Khoa và học Đệ Tam Cấp Toán tại Đại Học Sài Gòn. Sang Mỹ, anh lấy thêm các bằng Thạc Sĩ Vật Lý Hạt Nhân tại University of Pennsylvania, Thạc Sĩ Kỹ Sư Điện (Truyền Thông) và Tiến Sĩ Khoa Học (Điện trong Kỹ Thuật Không Gian) tại The George Washington University. Trước năm 1975, anh xuất thân là một thầy giáo toán, được gọi nhập ngũ khi có lệnh tổng động viên lúc chiến tranh ở miền Nam trở nên tàn khốc. Sau hơn hai năm, anh được biệt phái trở về dạy Toán và đặc trách Sinh Viên Vụ tại Đại Học Duyên Hải, Nha Trang cho đến lúc vượt biển và định cư tại Hoa Kỳ từ 1976.
    Anh là chuyên gia nghiên cứu cho NASA tại Trung Tâm Không Gian Goddard từ 1980 cho đến khi nghỉ hưu năm 2006, đã tham dự và phụ trách nhiều công trình khác nhau, về khoa học và kỹ thuật. Đóng góp quan trọng nhất của anh thuộc lãnh vực nghiên cứu và phát triển kỹ thuật xác định quỹ đạo (Orbit Determination) và phi hành tự động cho phi thuyền (Autonomous Spacecraft Navigation). Anh đã đăng tải nhiều công trình nghiên cứu với tư cách tác giả chính về vật lý và kỹ thuật không gian.
    Ngoài công việc chính ở NASA, anh có đóng góp vào một số sinh hoạt văn học ở hải ngoại. Đồng Chủ biên Tuyển tập Văn chương Chiến tranh The Other Side of Heaven (do Curbstone Press xuất bản năm 1995). Nguyên Đồng Chủ biên Tập san Việt Học The Vietnam Review của Đại học Yale (1996-1998). Nguyên Chủ bút Tạp chí Đối Thoại, California (1993-1994). Hợp tác, đóng góp bài vở cho một số tạp chí văn chương (giấy và mạng) như Văn Học, Hợp Lưu, Văn, Talawas, Tiền Vệ, Da Màu, Tương Tri, các blog như Phạm Cao Hoàng, Phố Văn, Trần Thị Nguyệt Mai, ...
    Về hội họa, ngoài các lớp học rải rác tại đại học và tư nhân, phần chính là tự học. Anh đã tham dự một số triển lãm tại Hoa Kỳ.
     Tôi được nghe kể vào những ngày cuối của cuộc đổi đời năm 1975, Nha Trang đang rất hỗn loạn. Khi gặp bạn là nhà văn đang trong quân ngũ thuộc một binh chủng “dữ dằn” mà nếu lọt vào tay phía bên kia chắc chắn sẽ bị tù đày và cái chết khó tránh, anh đã đưa cho bạn chiếc xe mini-truck có mui của mình – phương tiện di chuyển duy nhất của gia đình anh – hối thúc vượt thoát ngay. Hỏi anh, anh nói lúc đó chỉ nghĩ đến an sinh của bạn, không một mảy may nghĩ đến điều gì khác. Và tôi cũng được biết chính trong những ngày đó, anh đã cùng các sinh viên của Đại Học Duyên Hải lo công tác cứu trợ đồng bào chạy nạn đổ dồn về Nha Trang qua câu chuyện anh kể về người học trò Dương Thái Đức trong tạp bút Những Cơn Mưa Ngày Cũ. Tháng 3/1976, trên một chiếc ghe đánh cá nhỏ, cùng với bốn bạn đồng hành khác, anh vượt biển khi thấy “... Những tính toán về tương lai của học trò tôi, của chính tôi, bỗng trở thành ảo tưởng. Phía trước mù mịt. Lúc đó tôi mới qua tuổi ba mươi không lâu, đang rất năng nổ bỗng trở nên mất tự tin, trở nên e dè, ngỡ ngàng, lúng túng. Và, cố gắng ‘khôn ngoan’ như một người đã trải qua bao thăng trầm, bị vùi dập biết bao lần trong đời, để không dám sống thật với mình... May mắn, chúng tôi đến được Manila an toàn. Ghe chúng tôi là một trong những chiếc đầu tiên đến được Manila sau biến cố 1975.” [3]
      Những năm đầu ở Mỹ, anh quyết định tiếp tục con đường học vấn, lấy Thạc sĩ rồi Tiến sĩ bên cạnh năng nổ trong các sinh hoạt cộng đồng Việt Nam. Anh đã truyền lửa cho các bạn trẻ cùng sinh hoạt mà cho đến nay các bạn vẫn còn nhớ. Tác phẩm “Đuổi Bóng Hoàng Hôn” đã cất giữ những tâm tư, tình cảm cũng như những bài học kinh nghiệm anh muốn trao truyền cho những thế hệ tương lai. Sau đây chỉ là vài chia sẻ.
       “... Nhưng, cái thảm kịch lớn nhất vẫn là cái thảm kịch của một dân tộc mà những người làm chính trị đã khiến người dân bình thường sợ họ hơn sợ nỗi chết. Đó cũng là thảm kịch của một đất nước mà quân đội luôn luôn vinh danh về sự hùng mạnh, về những chiến thắng trên trận mạc, nhưng hoặc bất lực, hoặc cố tình làm ngơ trước những cướp bóc, hãm hiếp, giết người man rợ của bọn cướp biển ngoại nhân chỉ có vũ khí thô sơ, dù rằng chiến tranh đã chấm dứt, dù rằng nạn nhân là những con người vô tội hầu hết không hề cầm súng, và họ cũng là những người được sinh ra từ trăm trứng của mẹ mình. Quan trọng hơn hết, để thực sự dấn mình vào những nỗ lực của cá nhân và tập thể cần phải có cho thế hệ này, và cho những thế hệ kế tiếp. Để xã hội nhân bản hơn, tôn trọng những quyền căn bản của con người hơn, và để người dân có tự do, có cơ hội sống một đời có phẩm cách, như trong bao nhiêu quốc gia tiến bộ khác. Chỉ có như thế, cái thảm kịch như từng xảy ra trên biển Đông sau 1975 sẽ không còn xảy ra cho dân tộc Việt Nam trong tương lai nữa.” [3]
       “... Và, ở Tiệp ngày nay, nếu không có chút hiểu biết về lịch sử, tôi sẽ không thể nào tin rằng dân tộc đó đã từng hơn bốn mươi năm sống cô lập sau bức màn sắt, chịu áp đặt một chủ nghĩa xã hội rất thiếu nhân bản, chịu sự kiểm soát chặt chẽ về chính trị và quân sự của Liên Xô, và chỉ mới tách rời khỏi những ảnh hưởng đó chưa tới 27 năm.
    Nhìn lại một số đổi thay chính trị lớn, tôi nghiệm ra một điều: nơi nào có sự tham dự tích cực của giới trí thức và văn nghệ sĩ yêu nước, yêu sự sống, tôn trọng sự khác biệt, và can đảm đứng lên tranh đấu quyết liệt cho điều mình tin, cho những quyền căn bản của con người, thì ở nơi đó, sự đổi thay mang lại ít bạo lực nhất, những quyền căn bản được phục hồi và xã hội phát triển nhanh nhất. Hãy nhìn, như một phản đề, những gì đã xảy ra trong cuộc cải cách ruộng đất ở Việt Nam vào thập niên 50, trong cuộc ‘cách mạng văn hóa’ ở Trung Hoa vào thập niên 60, và sự thống nhất bằng quân sự và áp đặt chủ nghĩa ở Việt Nam vào 1975. Và, như chính đề, hãy nhìn những gì đã xảy ra trong những đổi thay lớn ở Đông Âu, và đặc biệt, ở Tiệp Khắc, vào 1989.” [3]
       “... Lý do chính để tôi mong Việt Nam giống như Đông Âu hơn là vì, khi thẳng thắn với chính mình, tôi thực sự không tin là sức mạnh của chúng ta còn là sức mạnh ở súng đạn nữa, trong khi sức mạnh súng đạn của kẻ thù vẫn y nguyên đó. Sức mạnh của chúng ta là ở cái đầu và con tim. Chính những ý thức về văn minh, về tiến bộ, về tự do, về dân chủ, cùng với khát vọng được sống một đời có phẩm cách của một con người ở thời đại này đã đánh gục chủ nghĩa Cộng sản ở Đông Âu, chứ không phải là súng đạn. Nhưng, nếu muốn đánh gục Cộng sản như ở Đông Âu thì không thể quên được tầm quan trọng của các phong trào phản kháng, bao gồm văn chương phản kháng, cùng với ý thức trách nhiệm và trình độ hiểu biết của người dân. Nếu dân trí Việt Nam thật cao, tình trạng Việt Nam sẽ gần với Tiệp Khắc. Nhưng, nếu dân trí thấp, tình trạng của Việt Nam sẽ gần với Romania hay tệ hơn. Đọc sách và tự do lựa sách để đọc là một phương cách để nâng cao dân trí. Còn hơn thế nữa, đó là một nhu cầu không thể thiếu và không nên thiếu, trong đời sống tinh thần của mỗi con người.” [3]
       “Giáo dục Việt Nam cần giảm bớt mô thức giảng dạy áp đặt và tăng cường mô thức gợi ý. Cần giảm thiểu sự mệt mỏi của học sinh, nhất là học sinh cấp tiểu học. Đặc biệt, nên giảm bớt lượng kiến thức hay thông tin trong chương trình học. Nhắm đến một hành trình lâu dài hơn của con người. Không nên để họ gục ngã sớm về đầu óc. Đặt nặng vào việc đào tạo giáo chức và dành những đãi ngộ đặc biệt cho họ. Trong trường hợp các nước đang phát triển như Việt Nam, giáo chức phải được tuyển chọn từ thành phần ưu tú nhất của đất nước. Đối với các trường đại học, ngoài việc áp dụng chương trình giảng dạy theo mô hình của các quốc gia tiên tiến tây phương, quyền tự trị đại học cần được ban hành cho đại học Việt Nam. Thiếu sự tự trị, đại học Việt Nam khó thể hoàn tất vai trò đào tạo trí thức của nó. Đề nghị sau cùng, và có lẽ là đề nghị quan trọng nhất, là nhà nước Việt Nam nên xem phát triển giáo dục toàn diện là ưu tiên hàng đầu của quốc gia, xem nguồn nhân lực được đào tạo qua giáo dục là tài nguyên quý giá nhất của đất nước. Và, khi làm chính sách giáo dục nên đặt trọng tâm vào những mục tiêu lớn như đào tạo con người trung thực, có sáng tạo, có tư duy độc lập, biết tôn trọng sự khác biệt, v.v… bên trên sự chuyển giao tri thức. Và, phải quên đi những gì thực sự không còn giá trị nữa.” [3]
       Kính thưa anh Trương Vũ, em rất đồng thuận với MC Nguyệt Ánh. Anh như cây táo trong The Giving Tree của Shel Silverstein mà anh dùng làm đoạn kết cho bài viết cuối cùng Về lại Sorrento của “Đuổi Bóng Hoàng Hôn”. Anh đã không ngừng cống hiến, vắt kiệt dâng cho đời tất cả. Em rất ngưỡng mộ anh. Và sẽ luôn nhớ lời anh dặn:
Hãy đem văn chương vào đời sống. Dù có làm thơ hay viết văn hay không, hãy đến với cuộc đời bằng tâm hồn của một thi sĩ. Bạn sẽ thấy cuộc đời đẹp hơn. Bạn sẽ thấy con người đẹp hơn.” [3]
       Mong anh chị luôn được an lành trong những ngày sắp tới. Và chúng em sẽ có dịp gặp lại anh chị cùng những anh chị khác và bạn bè rất thân quý.
 
– Trần Thị Nguyệt Mai
3-3-2024
 
 
Tham khảo:

[1] Tạm biệt một căn phòng – Thơ Phạm Cao Hoàng
 
[2] Giấc mộng trên đồi thơm – Nhạc và lời: Nguyễn Trọng Khôi
 
[3] Đuổi Bóng Hoàng Hôn – Trương Vũ

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Bây giờ trời đã tối, nhiều người đi ngủ sớm. Bọn trẻ học bài dưới bóng ngọn đèn dầu ở ngoại ô, ngọn đèn đường gần bờ sông. Trước hàng rào kẽm gai, một người lính mang súng đi đi lại lại, một đôi tình nhân đi chơi về muộn. Ngọn đèn hỏa châu sáng bừng góc trời một lát rồi tắt. Người yêu quê hương đã đi ra khỏi mảnh đất của những hận thù dai dẳng mà vẫn muốn trở về. Người nông dân muốn cày lại thửa ruộng của mình. Người thợ sửa đồng hồ muốn ngồi lại cái ghế vải nhỏ thấp của mình sau tủ kiếng bày đồng hồ cũ và mới. Lò bánh mì chiếu sáng nhấp nhô bóng những đứa trẻ bán bánh mì đứng trước cửa sổ với bao tải lớn đựng bánh nóng mới ra lò. Con chim về ngủ muộn biến mất trong bụi cây chỗ anh đứng.
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.