Hôm nay,  

Cuối nhánh sông dài

24/03/202407:02:00(Xem: 3323)
Truyện

niem tu

 

1.
Mùa hè một chín bảy hai, cha tôi tử trận ở Long Mỹ, để lại một vợ và bốn con. Mẹ lúc đó mới ba mươi sáu, tôi mười lăm và thằng Thanh vừa bảy tuổi. Sau gần ba tháng bàng hoàng, tang thương mẹ tôi trở lại với cuộc sống cơm áo đời thường với đàn con nhỏ dại. Con mất cha như nhà mất nóc, chị em tôi như bầy chim tan tác lạc đàn. Dòng đời vẫn lặng lẽ trôi mặc cho bao biến cải đổi dời. Mẹ con tôi phải cùng dựng lại nóc, mà từ ngày xưa cuộc chiến chinh nào cũng đã đưa những người mẹ trở thành “phụ thân”. Gom hết tiền dành dụm cộng với tiền tử, mẹ tôi bán luôn căn nhà đầy hình ảnh kỷ niệm của cha, để sang lại quán cơm bình dân, đối diện bến xe đò thị xã. Phía sau quán cơm Thanh Vị, mẹ tôi lấy tên thị xã đảo ngược lại, bà dựng thêm hai chái nhà cho mấy mẹ con cùng ở. Hai bên nộI, ngoại đều nhiều lần đề nghị đem vài đứa về nuôi, đỡ tay, nhưng bà một mực từ chối. Tôi thương mẹ vô cùng. Là con gái lớn, tôi cũng nhiều lần xin nghỉ học giúp mẹ một thời gian, khi ổn định đâu vào đó, tôi trở lại trường cũng không muộn. Mẹ tôi vừa khóc vừa mắng tôi một trận nên thân. Từ đó, tôi không dám nhắc đến nữa, mà cố gắng sau buổI học dồn hết tâm sức đỡ đần với mẹ và chăm sóc đám em. Đời sống mẹ con tôi cứ vậy lặng lẽ trôi qua như dòng kinh xáng chảy quanh thị xã, phía sau nhà.
        Hơn năm sau, quán cơm mẹ tôi khách ăn nườm nượp phải mở rộng thêm gần hết mặt lộ.  Khách quen thuộc hằng ngày, phần đông là đám tài xế và phụ lơ. Còn lại là hành khách tứ xứ hoặc những người lính trẻ một lần dừng quân. Họ đến và đi như những cơn gió nổi, không mấy lần trở lại. Có những hôm đường bị đấp “mô”, hay lỡ chuyến xe cuối cùng, vài người khách vào quán hỏi mẹ tôi xin được mướn chiếc ghế bố ngủ tạm qua đêm. Mẹ tôi nghĩ ngay đến chuyện biến hai chái phía sau thành nhà trọ cho khách lỡ đường. Cũng đã khá giả nên mẹ tôi mướn căn nhà rộng rãi gần nhà máy điện, cho chị em tôi có đời sống riêng biệt, xa khỏi chỗ bán buôn ồn ào. Công việc phụ giúp mẹ ở quán cơm cũng giảm dần vì mẹ đã có nhiều người bà con từ dưới quê lên làm phụ. Họ vừa tránh được cuộc chiến tranh đang càng ngày khốc liệt vừa kiếm được chỗ ăn, việc làm. Mẹ tôi sau thời gian lao đao, khốn khổ nay đã được chút bình yên. Bà tươi tỉnh và duyên dáng hơn xưa. Có nhiều người đàn ông cũng đến ve vãn, nhưng chừng như bà không mấy quan tâm, bởi đàn con bốn đứa. Năm đó tôi cũng vừa mười bảy, tuổi dậy thì rực rỡ của thời con gái. Ngực tôi vun tròn, mắt long lanh, môi luôn mọng đỏ và biết ngượng ngùng trước những đôi mắt của đám con trai cùng lớp, những người lính trẻ mỗi lần tôi đi ngang qua tiểu đoàn. Đêm tôi trằn trọc khó ngủ, nằm lắng nghe tiếng súng vọng xa xa quen thuộc, mộng mị vu vơ. Còn ngược lại ban ngày, tôi cứ nằm đâu là ngủ đó, như con mèo tam thể của bà Năm chủ nhà.
        Những chiếc lồng đèn xanh đỏ đủ loại bắt đầu treo bán khắp dãy chợ và trường tổ chức chương trình văn nghệ trung thu yểm trợ tiền phương. Nhờ cao ráo, sáng sủa tôi được tuyển vào ban hợp ca và ban vũ của trường. Trong một buổi tập hát, tôi quen Lộc. Anh học đệ nhất (12 bây giờ), trên tôi một lớp và trưởng khối báo chí trường. Chạm ánh mắt anh lần đầu tôi đã linh cảm một quan hệ tình cảm gì đó giữa tôi và anh. Lộc không đẹp trai, anh da ngăm ngăm, dáng người chắc hơi thấp nhưng anh có đôi mắt thật sáng và thông minh. Với anh, trong ánh mắt sáng đó, tôi biết hình ảnh mình đã chiếm ngự mỗi nỗi bối rối, ngỡ ngàng. Ngày nào, Lộc cũng đi ngang qua lớp tôi đôi lần. Để nhìn thấy tôi và được tôi nhìn đáp lại. Chỉ vậy mà đêm nào tôi cũng nằm mơ tưởng đến anh, muốn đêm qua nhanh để ngày mai tôi được anh liếc nhìn bối rối. Lộc ở trọ học nhà bà con gần ngõ nhà tôi, cuối bờ kinh xáng. Tôi dọ biết gia đình anh ở Hoà Hưng, cách thị xã cả nửa ngày đò. Cho đến một buổi tan học, vừa rẽ vào ngõ, tôi đã thấy anh đứng đợi tự bao giờ. Anh trao bức thư và nói vội, “Gửi cho Loan!” Tôi chưa kịp phản ứng, tim đập thình thịch thì anh đã rảo bước đi nhanh. Về nhà tôi không kịp thay đồ, chui ngay vào hầm “chảng-xê” để đọc. Tôi đọc đi đọc lại thư Lộc nhiều lần, gần như thuộc lòng mà vẫn chưa thấy chán. Vài ngày sau tôi trả lời thư anh và cuộc tình bắt đầu từ đó.
    Ông là người khách thương hồ tầm thước, tuổi chừng năm mươi. Một tháng đôi lần, ông ghé giao và nhận hàng đặt cho lần ghé tới. Nghe nói ông gốc gác ở miệt Tân Châu, Hồng Ngự. Trong đêm một đạn pháo rơi giữa nhà, cả gia đình đều chết thảm thiết, trừ ông. Đến nay ông vẫn chưa hiểu sau mình sống sót với bao mảnh đạn phá nát bả vai, phải mổ nhiều lần mới lấy hết miểng. Từ đó ông bỏ xứ ra đi, sống lênh đênh trên chiếc ghe bầu mà ông gọi là nhà. Chú Bảy, tên ông, sống đời trên chiếc ghe buôn, xuôi ngược khắp mặt nước sông hồ của miền châu thổ. Dạo sau nầy, ông ghé quán mẹ tôi thường xuyên hơn và lần nào ngoài hàng cho quán, ông cũng có những món quà nhỏ, là lạ phương xa cho chị em tôi. Khi thì gói chuối ngào Hồng Ngự, khi thì chục cam miệt Cái Bè và lắm lúc cả chiếc kẹp tóc đồi mồi tận chợ Hà Tiên. Để rồi có nhiều hôm, ông dừng ghe bên bờ kinh hẳn vài hôm, phía sau quán mẹ tôi. Ông giúp mẹ dựng lại một vách mái loang lổ, đóng lại vài chiếc bàn, cái ghế lung lay hay lót lại cái sàn nước đã lâu ngày gạch bể, trơn trợt. Mẹ tôi nhiều lần đề nghị ông ngủ lại phía sau nhà trọ. Ông đều từ chối. Chiếc ghe bầu là căn nhà trọ thân thương, duy nhất của ông. Nên không như những người đàn ông khác, mẹ tôi tỏ vẻ trìu mến, quyến luyến ông ra mặt. Mấy chị em tôi cũng quấn quít ông, nhất là tôi, không phải vì mấy món quà nhỏ phương xa, mà là những đêm ngồi nghe ông kể chuyện sông hồ.
          - Nược, là một loài cá nước ngọt, sống từng đôi và rất tinh khôn. Cá nược có nhiều ở sông Cái lớn, nhất là những khúc sông quanh quẩn cù lao. Chúng thường xuất hiện lúc trời vừa rạng hừng đông, từng đôi lộI đua theo những chuyến đò. Chú đã từng nghe kể lại tính thủy chung của loài cá tinh khôn nầy. Có người đánh lưới cá ở miệt Cái Bè, vô tình giết chết con cá nược đực. Con cái chờ đợi trả thù, dìm chìm ghe, giết chết người đánh cá. Sau đó nó tự lao mình lên bãi đất cồn, nằm chết khô trên cạn. Dân làng biết chuyện, cúng đàn giải oan cho người chết và lập miếu thờ đôi cá nược trên cù lao... Ngày nay giống cá nầy gần như mất dạng. Bom đạn, xe tăng, tàu chiến đã càn quét mọi sự sống, an bình của vùng đồng bằng sông nước. Chiến tranh không chỉ tiêu hủy con người mà cả thiên nhiên, cầm thú... Thôi khuya quá rồi, mấy đứa đi ngủ, mai còn đi học. Mẹ mấy đứa lại rầy rà chú nữa.
            Tôi và mấy đứa em còn đang chần chừ tiếc rẻ thì chú Bảy đã đứng dậy và đi ra ghe bầu đậu bến ở bờ kinh xáng. Cũng kịp lúc mẹ tôi vừa về, hối chị em tôi chuẩn bị đi ngủ. Như thường lệ, tôi dành ngủ một mình trên nắp hầm “chảng-xê”. Tôi nằm thao thức và nhớ Lộc vô cùng. Sáng nay anh gởi tặng tôi hai tập nhạc, Như Cánh Vạc Bay và Ca Khúc Da Vàng, của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Anh đã giữ tay tôi thật lâu khi trao tập nhạc. Tôi xúc động run cả người và chực muốn ngã vào vòng tay anh say đắm. Tôi sẵn sàng, nhưng anh thì vẫn chưa tiến xa hơn trong một tầm tay nắm. Hơi ấm lòng tay anh vẫn còn vương vấn tay tôi. Đôi mắt sáng, tình tứ của anh vẫn là tất cả giấc mơ tôi bao đêm dài trằn trọc.  
            Tôi chợt giật mình thức giấc với tiếng động trong đêm. Không biết tôi đã rơi vào giấc ngủ chập chờn nầy tự bao giờ. Tôi bàng hoàng lắng nghe tiếng sột soạt, tiếng trở mình khe khẽ từ phía ngoài, giường ngủ mẹ tôi. Tôi tê cứng cả người, mẹ tôi ngoại tình, ăn ngủ với người xa lạ nào đó? Mà không, bà đã mãn tang từ lâu, sao gọi ngoại tình. Nhưng người kia là ai? Nghiêng mình, tôi cố lắng nghe những tiếng thì thầm từ phía giường của mẹ, chỉ cách tấm vách ngăn mong manh. Tiếng nấc nhè nhẹ của mẹ chợt vang lên. Chuyện gì xảy ra cho mẹ. Mẹ tôi đã khóc quá nhiều rồi cho cuộc đời nầy, tôi không muốn bà phải khóc nữa. Nếu phải thấy bà khóc thì đó là những giọt nước mắt hạnh phúc trên khuôn mặt bà... Tiếng nấc nghẹn ngào của mẹ nhỏ dần rồi tắt lịm. Lúc sau là tiếng chân và tiếng cửa mở kèn kẹt trước nhà. Người đàn ông đó đã đi xa, để lại đâu đây tiếng thở dài của mẹ. Tôi úp mặt vào gối, cố xua đuổi chung quanh những việc đã xảy ra. Trăn trở, tôi xoay xở người tìm tư thế thoải mái, cố nhắm mắt tìm giấc ngủ... Đêm đó, trong giấc mơ chập chờn còn lại, tôi thấy Lộc hôn lên môi, ngực mình...
    Buổi chiều trãi chiếc thảm vàng nhạt xuôi dòng kinh xáng. Tôi nén vu vơ vài mảnh đất khô cứng xuống bờ kinh. Hai đứa vẫn ngồi yên lặng, đeo đuổI những ý nghĩ riêng tư. Lộc báo tôi hay ngày mai anh sẽ đi xa như bao thanh niên khác trong thị xã. Từng đợt nối tiếp nhau ra đi, để rồi sẽ vĩnh viễn không trở về vớI cuộc sống và nỗi thương nhớ quặn lòng của người ở lại. Nước mắt cứ tiếp tục ứa tràn mỗI lần tôi nghĩ đến những ngày sắp tới không có Lộc trong thị xã bé nhỏ nầy. Tôi khẽ liếc nhìn khuôn mặt đăm chiêu của Lộc, không hiểu anh đang nghĩ gì và có mang tình tôi trong đó.
          - Rồi một ngày Loan sẽ hiểu. Ngày đó, chắc gì Loan còn nhớ đến Lộc... Nhưng thôi, Loan hãy nhìn dòng kinh. Đẹp quá phải không Loan. Biết bao nhiêu đổi dời, tang thương dòng kinh xáng nầy vẫn sớm chiều lớn, cạn.
        Tiếng Lộc trầm buồn, không như những lúc ôm đàn hát, “Người con gái Việt Nam da vàng yêu quê hương nên yêu người yếu kém / Người con gái ngồi mơ thanh bình yêu quê hương như đã yêu mình...”, trong những đêm lửa trại. Tôi muốn nói với Lộc thật nhiều. Rằng mãi mãi, tôi sẽ không bao giờ quên Lộc. Rằng tôi yêu Lộc thiết tha hơn cả thị xã nầy yêu mến dòng kinh xáng Sà-No. Nhưng, ngôn ngữ chừng như đang giãy chết trong tôi. Đầu tôi nghĩ mà miệng lưỡi tôi đông cứng trơ trơ. Tôi đành chỉ nhìn bâng quơ những chiếc ghe xuôi ngược trên dòng kinh, mà nghe lòng mình thổn thức.
          - Hứa chờ Lộc trở về, nghen Loan. Chắc chắn Lộc sẽ trở về với thị xã, với Loan.Ngày đó quê hương sẽ không còn đạn bom, chết chóc và sẽ không còn những chia ly trong mỗi cuộc đời. Con ngườI sẽ nối thành vòng tay lớn của yêu thương, của lòng tin và hy vọng...
            Tôi lắng nghe từng lời anh như một tín đồ ngoan đạo. Lộc còn nói nhiều, rất nhiều về quê hương, con người và tình yêu rộng lớn. Nhiều lúc tôi không hiểu anh nói gì, nhưng cần chi, tôi chỉ muốn nghe giọng anh nói. Tôi chỉ muốn yêu anh và được anh đáp lại tình tôi. Những điều to lớn khác của anh, tôi không cần hiểu. Với tôi chung quanh anh là ánh sáng, là hào quang của tình yêu và mơ ước. Lộc ơi, Loan sợ những cuộc chia ly, những lời tiễn biệt.Đừng nói đến ngày mai nếu mình không gặp lại, không có nhau. Trong tình yêu của anh, Loan chỉ là con chim nhỏ đang tập chuyền cành, đừng để em cô đơn giữa bầu trời quá rộng... Lộc quay sang nhìn tôi ngây dại và nắm tay tôi, siết nhẹ. Tôi nghe tim mình thổn thức từng cơn. Lộc chợt kéo mạnh tôi ngã vào lòng anh, khép chặt vòng tay. Khuôn mặt tôi và anh chỉ cách trong hơi thở. Tôi khép mắt như một phản xạ tự nhiên. Đôi môi Lộc lướt nhẹ trên mũi, dọc má và gắn chặt bờ môi tôi chờ đợi. Tôi chưa biết hôn trả lại thế nào chỉ biết đầu lưỡi tôi tê dại trong nụ hôn anh tha thiết...
 
2.
Ngọn đèn chong soi bóng dì Út lùi dần, mờ nhạt trên bờ kinh. Tiếng máy ghe dượng Bảy khàn đục, vỡ tan từng tiếng vọng chạy dọc đôi bờ. Đêm cuối tháng Ba trời vằng vặc và se sắt lạnh. Hôm qua mẹ tôi đã cúng ông bà như lời cầu yên lành và chia tay bếp lửa gia đình. Bếp lửa nơi thắp sáng mọi yêu thương, khổ đau, hạnh phúc của tuổi thơ tôi trên vùng quê hương sẽ để lại phía sau…Rồi cuộc chia tay cuối cùng giữa mẹ con tôi với dì Út cũng thật lặng lẽ, thoáng chốc. Tất cả những điều cần nói chúng tôi đã nói hết trong những tháng ngày khốn khổ trôi qua. Phía sau ghe, bập bùng trong đốm lửa trên môi là khuôn mặt thẫn thờ, nghiêm trọng của dượng Bảy. Chưa bao giờ tôi thấy mến phục ông như lúc nầy. Ông đã đem lại tất cả niềm vui, sự sống và bao hy vọng cho gia đình mẹ con tôi.
 
       ... Cuộc đổi đời năm bảy lăm, một lần nữa đưa gia đình tôi vào ngõ ngoặc mới. Quán cơm đóng cửa, mẹ con tôi sống thấp thổn từng ngày trong chiến dịch giảm dân và hồi hương những gia đình “ngụy” không phải sinh quán tại thị xã. Gia đình tôi nằm trong diện nầy. Mà không ở trong diện nầy thì gia đình tôi cũng không sống nổi với đám chính quyền thị xã. Con côi mẹ góa, thành phần tiểu thương là mục tiêu đấu tranh “giai cấp” của chính quyền mới. Công an khu vực lãng vãng trước nhà, trường học cứ bắt phải khai lý lịch mỗi học kỳ. Con cái lần lượt bỏ học, mẹ tôi bán dần đồ đạt trong nhà sống cho qua ngày đoạn tháng. Nước chảy đá mòn, chẳng bao lâu nhà cửa trống trơn, chúng tôi chỉ nhìn nhau rồi nhìn mẹ chờ đợi ngày tình nguyện đi vùng kinh tế mới. Mẹ con còn đang hốt hoảng, thì chú Bảy bất ngờ trở lại. Không như một người khách trú qua đường, ông là vị cứu tinh của gia đình tôi. Chú Bảy trở về với tất cả sự kính nể và trọng đãi của đám chính quyền địa phương. Xóa bỏ tên Chương Thiện, thị xã Vị Thanh thành đơn vị huyện, thuộc tỉnh Cần Thơ. Chú Bảy là người có công với cách mạng và là bạn đồng chí với bí thư tỉnh ủy. Theo lời chú kể, trong chuyến giao hàng ngang Hỏa Lựu, chú đã vô tình giúp đở dấu trên ghe một người đàn ông đang trọng thương ra khỏi trận ruồng bố của lính quốc gia. Sau nầy biết được người đó chính là bí thư thường vụ tỉnh ủy Cần Thơ. Chú Bảy vốn không biết gì, cũng không quan tâm đến chuyện chính trị, chỉ thấy người hoạn nạn cứu giúp vậy thôi. Nhưng cũng từ đó, chiếc ghe chú Bảy trở thành đường tiếp vận, giao liên cho các đồng chí lãnh đạo tỉnh... Chú Bảy trở thành dượng Bảy của chị em tôi bằng một buổi tiệc gia đình thật nhỏ. Dượng thật sự rời bỏ một đời sông nước và dừng bước chân thương hồ với mẹ tôi bên bờ kinh xáng Sà-No. Bến xe thị trấn chẳng mấy chốc chen chúc khách đường xa. Mẹ và dượng mở lại quán cơm.Cuộc sống gia đình tôi từ đó ổn định, nề nếp và chiếc ghe của dượng buộc bến sau nhà. Thỉnh thoảng dượng cùng mẹ hoặc chị em tôi lại xuôi ngược dòng kinh xáng trong những chuyến mua hàng trên tỉnh... Và, tôi đã biết được người đàn ông trong đêm đó là chính là dượng Bảy.
            Ngày tháng qua, tôi vẫn thẫn thờ nhìn những buổi chiều lặng lẽ trên dòng kinh mà thương nhớ một người.Đã năm năm rồi thoáng chốc trôi qua. Đã năm năm rồi không gặp, tin Lộc vẫn biền biệt mù tăm. Cuộc tình có sâu đậm bao nhiêu rồi cũng cuốn dần theo năm tháng mỏi mòn. Tôi không còn là cô học trò thơ dại mộng mơ, vụng về chưa biết hôn môi. Đời sống áo cơm và cuộc biến động không chừng của xã hội làm cho thế hệ tôi già dặn trước tuổi thời gian. Vài người đàn ông nữa đã đi qua đời tôi. Những cuộc tình đó thật ngắn ngủi và không để lại một âm vang. Tên tôi là một loài chim, con chim luôn vươn lên tìm khoảng trời xanh thẳm, mà chừng như chung quanh nó chỉ là những vách đá cheo leo và những biển đồi không bến đậu. Cuộc chiến tranh chấm dứt bất ngờ, như nén chúng tôi vào xã hội không ngày mai, không lối thoát. Họ, những người trẻ đã ra đi, cũng vẫn chưa trở về. Nếu đâu đó, có người trở lại thì cũng chỉ vội vã, lơ láo chuẩn bị cho một chuyến ra đi vô định khác. Đám thiếu nữ chúng tôi vẫn cô đơn trong nỗi đợi chờ vô vọng. Nhóm người mới, những kẻ chiến thắng họ lại càng ngơ ngác hơn trước những khước từ của cuộc sống chung quanh. Một lần tưởng đã quên, tưởng đã quá khứ cuộc tình mới lớn.... Những buổi chiều một mình, ngồi nhìn dòng kinh xáng Sà-No chảy lững lờ quanh thị xã phía sau nhà, tôi không hiểu tại sao hòa bình rồi mà không ai muốn ở lại…?
 
3.
Chiếc ghe máy chợt như khừng khựng, chậm lại. Tiếng dượng Bảy vọng nhỏ từ phía sau mui:
      - Trạm kiểm soát...  Tụi nó kêu ghé vô.
     Chị em tôi bừng tỉnh, ngồi lại chĩnh tề. Bên ngoài mũi ghe trời cũng lờ mờ sáng. Mẹ tôi vừa xấp lại mấy quả đựng bánh vừa dặn nhỏ:
      - Nhớ là mình về ngoại ăn Tết ở Giồng Riềng nghen.
      - Dạ...
     Chiếc ghe máy cặp sát bờ, hai người thanh niên trẻ nón tai bèo vai khoác súng nhảy xuống chòng chành mũi ghe.
      - Đi đâu mà đông dầy nè. Có giấy đi đường hông... Chủ ghe đâu ?
     - Dạ gia đình tôi về quê ăn Tết ở Giồng Riềng. Có giấy đi đường đây, trình mấy chú.
     Mẹ tôi lui cui đưa tờ giấy đi đường đã cầm sẵn trên tay.  Một ngườI thanh niên rọi đèn pin dọc ngang tờ giấy, còn người kia luồn đầu đi thẳng phí sau mui lái.
     - Chú cho coi giấy chứng minh nhân dân.
    - Tui đưa má nó dới mấy đứa sấp nhỏ dìa quê ăn Tết. Giấy chứng minh của tui đây, chú coi.
    Hai người thanh niên cầm giấy tờ ra phía trước mũi ghe, xem xét và thì thầm to nhỏ. Mọi người còn đang yên lặng chờ đợi thì có giọng xấc xược:
    - Chú cho tắt máy ghe và tất cả mọi người lên bờ!
    - Dạ chuyện gì vậy chú...
    - Thì cứ lên trạm sẽ rõ.
   Dượng Bảy tắt máy, ra dấu cho chúng tôi theo dượng lên bờ. Trạm kiểm soát là căn nhà lá nền đất vuông vức chừng bảy, tám mét. Bên trong cuối căn vách, phía trên là bức hình lãnh tụ nhìn xuống cười mai mỉa, dưới là một bàn làm việc nhỏ với rải rác giấy tờ và bên hông là một bàn tròn lớn khác với bốn chiếc ngồi chung quanh. Họ ra dấu cho chúng tôi ngồi đợi và cầm giấy tờ cùng dượng Bảy đi vào phía trong. Mấy mẹ con lo lắng nhìn nhau, nghĩ đến tình huống đen tối nhất. Lát sau dượng Bảy đi ra, nói nhỏ:
     - Tụi nó tình nghi mình vượt biên.
     - Làm sao bây giờ...  Mẹ tôi hốt hoảng.
     - Đợi tụi nó đi gọi thằng trưởng đồn công an đến giải quyết.      
    Giọng dượng Bảy vẫn từ tốn, nhỏ nhẹ. Thời gian chờ đợi nặng nề trôi qua. Dượng Bảy đã chuẩn bị giấy tờ thật cẩn thận cho chuyến đi, không hiểu sao đám công an nầy vẫn làm khó dễ. Nhưng mỗi lần nhìn khuôn mặt bình thản của dượng, tôi thấy an tâm phần nào. Cho dù là sự an lành không đâu, trong xã hội mà mọi nghịch cảnh có thể xảy ra bất lúc nào, bất cứ nơi đâu. Có vài tiếng chân và tiếng người lao xao bên ngoài. Tôi sững sờ ngước nhìn người đàn ông bước vào trạm. Lộc. Đúng là Lộc. Lộc của tôi ngày xưa đây mà. Anh không gì thay đổI, ngoài khuôn mặt hơi sạm đen, ráng nắng. Tôi chưa kịp phản ứng thì Lộc nhìn thẳng mặt tôi thoáng chút ngạc nhiên, rồi hững hờ lướt qua, tiến đến chiếc bàn đặt cuối phòng. Hai ngườI công an đưa những giấy tờ tùy thân của gia đình tôi cho Lộc:
     - Xin báo cáo đồng chí thủ trưởng, giấy tờ đầy đủ nhưng không biết thiệt hay giả. Vã lại trên ghe chở nhiều thực phẩm, lại đi về vùng biển Rạch Giá, rất tình nghi tổ chức vượt biên.
      - Được, để tôi. Hai đồng chí cứ tiếp tục nhiệm vụ.
     Hai người công an trẻ liếc nhanh về phía chúng tôi rồi bỏ ra ngoài. Lộc nhìn lướt qua giấy tờ, rồi ngước mắt về phía dượng Bảy:
      - Ông là chủ hộ, chủ ghe.
      - Dạ phải.
      Lộc đứng dậy, đi chầm chậm về phía dượng Bảy. Nỗi sợ hãi tan biến, nước mắt chợt từ đâu dàn dụa trên mặt tôi. Biết bao năm tôi đợi chờ, thương nhớ bây giờ là đây. Lộc bằng xương bằng thịt, xa lạ, hững hờ đang trước mặt và chuẩn bị đưa cả gia đình tôi vào vòng tù tội. Nhớ ngày nào bên dòng kinh, anh bảo tôi chờ đợi, tưởng anh không trở về nào ngờ anh đã lãng quên. Tôi cúi đầu, không muốn nhìn anh, không muốn nhìn thấy từng nỗi ước mơ tôi vỡ tan, rụng chết. Tôi không dám nhìn mẹ, dượng, mấy em tôi như thể chính mình là kẻ tội đồ của những hành động lạnh lùng của Lộc đối với gia đình. Lộc ơi, tại sao mình gặp lại nhau làm gì. Tại sao Lộc không chỉ là Lộc của ngày xưa,“Từ lúc đưa em về là biết xa nghìn trùng...”, như bao lần ai cất tiếng hát em nghe.
     - Bà đưa mấy đứa nhỏ xuống ghe, đợi tôi.
    Tiếng dượng Bảy làm chúng tôi bừng tỉnh. Hiểu ý ông, mẹ tôi lặng lẽ ra dấu cùng chị em tôi xuống ghe. Tôi cố quay lại nhìn Lộc và dượng đi về phía trong trạm kiểm soát. Lộc đi thẳng, không nhìn lại. Lát sau, mọi người thở phào khi thấy dượng bước xuống ghe với giấy tờ trên tay cười, nói:
     - Xong rồi, mình đi.
     - Thiệt hả... Ông nói gì với tụi nó vậy.
    Mẹ tôi mừng rỡ hỏi. Khuôn mặt bình thản dượng cười nhẹ, kéo cổ áo và chìa cánh tay trái, ôn tồn nói nhỏ:
    - Nói gì đâu... Tôi lột đưa thằng trưởng đồn sợi dây chuyền và cái đồng hồ đeo tay. Nó trả giấy tờ cho đi, còn chúc hờ cả nhà về quê vui vẻ.       
   Chiếc ghe máy dượng Bảy rời trạm, xuôi vào giữa dòng kinh xáng. Tôi không cầm được nước mắt, cắn chặt môi để không ngoái đầu nhìn lại. Trạm gác lùi dần, mờ nhạt phía sau. Dòng sông như tẻ đôi bờ, rẽ con nước từng cụm lục-bình bị đẩy ngược hai bên hông chiếc ghe dượng Bảy. Trời đã chạng vạng sáng, tôi cố hít thật sâu hơi thở quyện mùi thơm cây cỏ quê mình. Phía trước chúng tôi là cuối một nhánh sông dài, nơi sông sẽ về với biển… Hơi nước lạnh đọng môi tôi mằn mặn, câu hát nào còn văng vẳng dọc bờ kinh:
    Nơi em về ngày vui không em
    Nơi em về trời xanh không em
    Ta nghe nghìn giọt lệ
    Rớt xuống thành hồ nước long lanh... (Như Cánh Vạc Bay – Trịnh Công Sơn)
 
-- Niệm Từ

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.