Hôm nay,  

Bỏ lại

25/04/202410:30:00(Xem: 3112)
Tạp bút

paris

Ở cái xứ sở Âu Tây này cũng có quá nhiều tự do, thành ra cuộc sống có lúc thành bất cập, công đoàn ra sức nhiều lần đình công, yêu sách này kia, đòi tăng lương, đòi làm ít thời giờ hơn, đòi nghỉ hưu sớm v.v… nhất là công đoàn CGT vận chuyển công cộng người đi làm việc như métro, RER, tramway, bus… Một lần đó họ đình công vào dịp mùa đông, trời rất lạnh và mọi người đều e ngại co ro.
    Thời buổi này thất nghiệp nhiều, nếu ai đã có một chỗ làm, phải cố gắng bám trụ. Khi xe lửa báo hiệu đình công là phải chuẩn bị tinh thần để hôm sau phi thân ra đường sớm, mong làm sao ra sức len lỏi được lên xe để đến chỗ làm việc khỏi mất một ngày lương.
    Buổi mai hôm ấy, không phải là một buổi mai có sương thu và gió lạnh, có mẹ tôi âu yếm nắm tay đi tới trường, mà là một buổi mai u ám, mưa, gió và mây đen vần vũ như một cái vung to lớn sắp úp chụp xuống đầu… lại thêm xe lửa, métro, bus tuyên bố đình công 4/5. Sáng ngủ dậy, thu xếp, giục giã mang con cái tới trường xong, là tất cả chạy ra đường lớn, người người đều chạy ra xe, đeo theo xe và chịu khó chen lấn để mong lên bất cứ một phương tiện chuyên chở nào. Ngoài đại lộ, xe nườm nượp đông hơn mọi ngày, vì cả đa số xe hơi riêng cũng được mang ra sử dụng. Thành phố được dịp biểu dương lực lượng xe cộ đủ loại, từ xe cũ mèm đến những xe sang trọng, mới như mercedès, BMW, hình như có cả Rolls Royce… tuy nhiên vận tốc xe xê dịch không khá hơn bộ hành là bao. Trên vỉa hè, người đi bộ lũ lượt, họ rủ nhau đi từng đoàn, có người hăng hái cho là mình thừa khả năng đi bộ tới sở làm. Có một số tìm một trạm xe điện ngầm tụt xuống, cầu mong bất chợt có một chuyến xe không lãng công chạy tới. Đa số tụt xuống, chờ vô vọng, lại chui lên, lại đi bộ. Trên mặt đường, đoàn xe rùa bò vẫn rùa bò một cách bình tĩnh đến nghênh ngang, vì vậy có người đi bộ vẫy vẫy tay xin quá giang, có lẽ mỏi chân rồi, nhưng không được, xe nào cũng đã đầy nhóc người là người, thất vọng họ phát lên cùng nhau cười rộ. Nói đúng ra người Âu Mỹ ít va chạm nhiều bi thảm, họ vẫn nhìn cuộc đời độ lượng và khá khoan hòa.
    Như mọi người, tôi ra đường rất sớm với sắc tay nhẹ chỉ với một cái dù nhỏ. Tôi cắm đầu cuốc bộ ra gare. RER báo hiệu trong một giờ sau mới có một  chuyến xe từ ngoại ô Marne la Vallée vào Paris. Cô đầm, phát ngôn viên ở gare, giọng ấm áp, rất dịu dàng, lịch sự, không làm vơi đi niềm ngao ngán của khách chờ xe. Khách đứng chật hai bên quai. Đông người quá, khó nhúc nhích, tôi chán nản bỏ train RER leo lên lầu chờ trạm. Cũng may, khi RER đình công thì train chạy, dù là rất giới hạn, vẫn có ít người không thể ngưng làm việc dù chỉ một ngày vì cuộc sống của con cái họ. Tuy train chạy chậm hơn RER nhưng còn hy vọng xê dịch được, còn hơn đợi chờ mòn mỏi mà không chắc  leo lên RER được không.
    Khi tôi vừa lên được quai của train, thì cả rừng người đang ồn ào chợt im lặng nghe thông báo : vẫn cái giọng một cô đầm gợi cảm và lễ độ : « đường số 1, hướng về Paris, có một train sắp tới trong năm phút, merci de votre compréhension! » Không ai có thể cảm thông nổi một ngày phiền toái như một ngày xe điện đình công, vì ai ai cũng vừa bỏ tiền ra mua vé xe tháng! Có lúc người ta cười rộ lên. Người ta chửi thề, người ta chế nhạo công đoàn phá bĩnh ! Làm khó !
    Thiệt ra có xe, có đến hai lần, trong khoảng cách 45 phút tới 1 giờ. Nhưng rất ít người có thể lên được. Nhứt là đàn bà, con gái yếu đuối và cả một số nam giới không thích chen lấn… người yếu xô đẩy cũng bị đẩy lùi, lùi dần, như là càng lúc càng bị đẩy văng ra xa hơn cửa xe… Tôi chợt cảm nhận như đây là một cuộc tranh giành xô lấn, y hệt cái vượt trội kinh hoàng của ngày 30-04-1975 của quê hương tôi ! À không, ở đây, không có đạn pháo kích nổ vang trời… không có người bị chết ở giờ thứ 25. Tôi vẫn còn nhiều ám ảnh, ấn tượng dù đã bao năm qua. Có lẽ tôi đã mòn mỏi tuổi đời và thần kinh yếu kém đi !
    Cứ thế tôi bị xô lùi dần về phía sau. Vô lý quá, tôi bực bội nhìn quanh… tôi bị đẩy lùi hai ba lần liên tiếp, không chống đỡ nổi làn sóng người như nước vỡ bờ. Lần lùi tới, tôi lùi thật lẹ vì sợ người ta đạp nát chân mình, tôi hơi cáu rồi đó, nhìn sang phải, sang trái, bất mãn và lần này tôi bắt gặp một đôi mắt cũng đầy vẻ bất mãn ở ngay áp sát bên sườn tôi. Cô ta đang nhìn tôi vẻ thương hại và ái ngại, cũng đúng thôi. Một đôi mắt Á Đông, dịu dàng, yếu đuối bị xô đẩy đến tụt cả mũ len choàng đầu. Cô sợ hãi vì không tìm ra chỗ bám, phảng phất ánh hoảng hốt:
    "Cơ khổ, kẹt quá, chị ơi ! Mình cứ bị đẩy lùi xa mãi… "
    Rồi… đúng là một giọng nói Việt Nam… tôi an ủi cô và cũng là tự an ủi: "Không sao đâu, rồi mình cũng lên được à. Đến sỡ trễ cũng không sao, miễn là mình có tới.
    "Đành thế, mà em ngại, tại vì em mới tới đây có hai năm, em đã ở không gần hết hai năm dài đó, giờ em mới tìm được việc làm, em mới đi làm…"
    "Không hề chi, chủ nghe tin tức, métro đình công, sẽ hiểu… nhưng mà cách nay hai năm thì mọi sự đều đã khó khăn, giấy tờ thủ tục làm đâu có dễ gì. Làm sao em có thể qua đây được. Em giỏi quá. May quá."
    Người thiếu phụ trẻ, đồng hương tôi mới quen, vẫn phải đứng dán chặt vô người tôi, chớp chớp rèm mi cảm động và sung sướng thổ lộ chuyện riêng: 
    "Kể ra em may thiệt chị à. Em không bao giờ ngờ có ngày mẹ con em tới đây. Em có chồng đi cải tạo ba năm mấy, về, rồi vợ chồng gom góp cho anh đi vượt biên, chẳng may, chồng em mất tích, không còn tin tức. Mẹ con em đã tưởng là sống mỏi mòn với cộng sản VN. Rồi may quá, cuối cùng, cách nay hơn hai năm, em nhập hộ khẩu của ông hàng xóm của em ở Việt Nam, làm giấy tờ hôn thú, thông hành, rồi cùng ra đi với ông ấy. Tới đây, tụi em sống chung, bây giờ chúng em là vợ chồng. Em có một đứa con gái riêng với chồng trước em, 12 tuổi. Chồng nay của em có một cháu gái riêng 19 tuổi, trước ngày sống với mẹ nó, nay ưng về sống chung với chúng em, cả thẩy là bốn người, gồm đủ con anh, con em, nhưng chưa có con chúng ta."
    "Rồi sẽ có thôi."
    "Không đâu, em còn trẻ, nhưng chồng em hiện giờ đã già rồi. Anh thương em lắm, nhưng không muốn có thêm con mọn. Ảnh sợ cha già con cọc, rồi mình mệt nhọc mà cũng không nuôi nấng được con đàng hoàng."
    "Ổng cũng đúng thôi. Đứa bé nhỏ ở trong tay cha mẹ già như lúc nào cũng điên đầu mệt mỏi, đâu có sung sướng bằng ở trong vòng tay nâng niu của cha mẹ trẻ còn yêu đời vô tận."
    "Vâng chồng em có lý. Vả lại, cô có ý nói nhỏ nhỏ giọng xuống, ảnh cũng có một con trai lớn bộn với chị lớn rồi. Trai gái đủ cả. Thêm nữa, ở đây lúc này kiếm sống cũng khá khó khăn…"
    "Thế tại sao anh nhà lại thôi sống với chị lớn, họ không cùng đi vượt biên sao?" Tôi tò mò nhích tới.
    "Không, chuyện rắc rối lắm, lôi thôi hơn cả tiểu thuyết chị à,… là như vầy, hồi đó, là lúc 30-04-1975, ảnh là sĩ quan miền nam đi cải tạo, năm 1979 vợ anh và hai con anh, một trai, một gái được phép hồi hương về Pháp. Chỉ phải ra tận trại tù ở miền Bắc xin quản giáo nhiều lần cho gặp chồng, chồng ký giấy ưng thuận cho vợ mang con đi. Chị ấy và hai cháu đi. Sang Pháp, chị tần tảo đi làm, nuôi con, gửi quà về nuôi chồng và có làm giấy bảo lãnh cho chồng. Nhưng thật đáng tiếc là nhà nước cộng sản giữ ảnh lâu quá lâu… chị coi giữ tới 15 năm trời. Hình như là sau năm 1990 anh ra trại, vợ lớn anh chờ lâu quá, rồi nghiệp duyên đưa đẩy, chị đã gặp và yêu thương người khác. Chị ấy liền sang tên cho đứa con trai lớn nhờ bảo lãnh cha nó. Tội nghiệp anh, người trở về chiều ngày 30 tết năm 1990. Em, đầu tiên dòm thấy anh thất thểu bước vào xóm cũ, người xưa đã đi xa, cảnh cũ đã đổi thay, anh ngồi bần thần dưới hàng hiên nhà cũ… mẹ con em cũng đang côi cút, chúng em mở cửa gọi và đón anh cùng ăn tết qua ba ngày đầu năm. Sau đó chúng em thông cảm và làm thành một gia đình mới. Ngày xưa, trước 1975, em gọi anh là chú, bác gì đó… nay thì là chồng mới của em."
    "Bà vợ lớn tử tế và đầy tình nghĩa…"
    "Vâng, chồng em đâu dám trách cứ chị lớn một câu nào. Bây giờ vẫn hòa thuận, chị tới giúp đỡ gia đình chúng em hoài. Cô gái con chị ưng về sống với tụi em."
    "Gia đình hòa thuận như thế đó là có phước đức lớn. Nơi đây, ít nhà ai có được."
    Nhưng rồi người thiếu phụ bỗng sa sầm nét mặt:
    "Không đâu chị ơi, cũng có lúc tụi em buồn lắm. Tụi em thì không có chi bất hòa. Mà lỗi là ở hai đứa con gái, con ảnh và con em, con nhỏ không chịu con lớn, con lớn không nhường con nhỏ. Chúng cãi nhai đánh nhau hà rầm, có lần em nghe được chúng xỉ vả nhau như vầy: tao với mầy, không anh chị em ruột thịt chi, không nợ nần, không cùng cha mẹ… tại sao cứ phải ở với nhau ? Cái bản mặt mày thấy ghét quá!"
    Nói xong, mặt cô đỏ bừng, vừa giận vừa buồn, luống cuống hai bàn tay run run…
    "Con nít gây lộn là thường, rồi chúng lại làm hòa, người lớn mỗi ngài mỗi giảng giải thêm một chút, rồi chúng sẽ hiểu ra lần lần."
    "Không xong chị ơi, tụi em đã nói rất nhiều lần, chẳng đi tới đâu…"
    "Vậy anh ấy nên mang con lớn về giao cho phía má nó."
    "Không xong vì nó không ưng ông dượng nó."
    "Vậy thì phần lỗi là ở cô gái lớn rồi. Muốn sống chung phải thương nhau, người này nhường người kia một chút."
    "Cha nó đã giải thích đến khô cổ họng, đến phát chán."
    "Thôi, em, đợi vài năm nữa, tuổi mới lớn qua đi, nó sẽ dịu dàng trở lại, tính tình sẽ đằm thắm hơn…"
    Cô bạn trẻ thở dài nhè nhẹ:
    "Biết em có chịu được một vài năm nữa không, nhiều khi mình hang hái làm một công việc, vậy mà gần xong, mình lại không còn muốn làm cho xong, mới kỳ lạ chớ! Có trời mà hiểu! Chồng em vẫn nói với em “phải ráng" và ảnh cũng ráng khuyên con, nhưng em vẫn sợ, em cần phải có công việc làm, em phải làm việc, cho quên sợ!"
    Lạ lùng, vừa quen nhau, mà chúng tôi tâm sự thật lâu. Trên quai xe, train như đến mau hơn. Tôi không biết khuyên thêm điều gì, liền hỏi bâng quơ xem cô ở đâu ?
    "Em ở Gagny xuống. Còn chị?"
    "Tôi ở Brie sur Marne."
    Chúng tôi tần ngần đứng yên lặng bên nhau. Vẫn rất sát nhau vì xe quá chật. Nhờ câu chuyện vãn, cả hai chúng tôi đều đỡ sốt ruột điên đầu. Rồi cũng có một chuyến tàu xịch đậu lại. Người ta lại xô đẩy giành giựt nhau lên… cửa xe đóng không nổi vì kẹ ngay lối lên một ông tây quá lớn con. Giằng co thu xếp không xong, ba giây sau, ông tây phải tụt xuống… tôi lợi dụng mình nhỏ người tí tẹo trám ngay vào chỗ trống.
    Ồ không một giây chậm trễ, une petite place svp, tôi thành công trong tíc tắc, một niềm vui nho nhỏ, rất nhỏ. Nhưng kìa, tôi đã phải bỏ lại cô bạn đồng hành ở sau lưng, cô bạn vn đứng đó, bất động, bùi ngùi… rồi đưa tay lên vẫy vẫy, như cái máy, tôi cũng đưa tay lên vẫy từ biệt cho tới khi khuất dạng. Vâng, trong tíc tắc tôi bỏ lại người bạn đồng hành một đồng hương sau lưng tôi. Cũng vậy, mấy mươi năm trước, cũng trong một sát na, tôi đành bỏ lại quê hương yêu dấu, quê hương tôi ngàn trùng xa cách ở bên kia bờ đại dương…

Chúc Thanh

Paris, nhớ về 30-04-1975

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tả sao cho hết cảnh cổng lớn đồ sộ. Từ chân lên đến đỉnh, tràn ngập mặt nạ treo kín mít. Đủ loại mặt nạ tượng trưng cho thiện ác, xấu đẹp, đúng sai. Có cả mặt nạ Chúa, Phật, thánh thần, hiền nhân, ác tặc, vân vân. Dọc bên dưới là những thùng lớn chứa vô số mặt nạ theo kiểu treo bên trên. Người nào đi vào, tự động lựa cho mình một loại mặt nạ hợp với tính tình, mang lên, rồi mới được tiếp tục đi. Mỗi người có hai mặt nạ, một thật đã thói quen thành giả và một giả thật chồng lên.
Chúng tôi cùng cười vui vẻ tìm đường ra khỏi cổng chùa Thiên Trù tức “chùa Ngoài” để rồi tiếp tục cuộc hành trình vào chùa Hương Tích tức “chùa Trong”...
Anh nhớ rõ buổi sáng hôm đó, anh đang chăm chú theo dõi viết bài bài thi Dictée Francaise do thầy Trương Thành Khuê đọc, bỗng nhiên ngửi thấy mùi cứt, cả lớp ngẩng đầu nhìn qua bệ cửa sổ thấy có 4 người tù đẩy một chiếc xe có hai thùng phân của nhà lao Phan Rang, theo sau là môt tên lính mang súng và tay cầm roi da. Cả thầy Khuê và các bạn đều nhìn ra cha của anh, một trong 4 người tù ấy. Anh cúi xuống và tiếp tục viêt bài thi. Cuối giờ thi, nước mắt anh hoen ố bài Dictée. Thấy vậy thầy Khuê lấy tờ giấy chậm (buvard), chậm khô bài thi Dictée. Cha của anh cũng là giáo viên, có thời ông là bạn láng giềng thân thiết của thầy Khuê. Đến lúc ra về, các bạn Long Địch Trạnh, Trần Nhât Tân, Trần Văn Thì... đang đứng đợi anh bên ngoài véranda, các bạn đến an ủi và vổ về khích lệ khuyên anh cứ tiếp tục thi.
Hai đứa cùng lớp từ tiểu học. Nhà Quỳnh Lâm ở gần sân vận động. Nhà tôi ở đường Quang Trung, gần trường Chấn Hưng. Hai đứa đến trường Nữ Tiểu Học từ hai hướng khác nhau. Vậy mà vẫn cứ đi vòng, để cùng đến lớp. Hai đứa vẫn thường tắm chung trước khi rời nhà. Quỳnh Lâm mặc mấy áo đầm kiểu trong báo Thằng Bờm, Thiếu Nhi. Ba tôi bảo thủ, cho tôi diện những kiểu đầm xưa lắc, xưa lơ. Có năm, kiểu áo đầm xoáy, tay cụt rất thịnh hành. Chị Thanh Tâm xin Mạ ra tiệm Ly Ly may cho tôi một áo. Nhưng Ba bắt phải cải biên, tức là phải dài quá gối (đâu còn thuộc họ mini jupe nữa đâu), và tay phải dài che cùi chỏ.
Người con gái ngồi bất động như thế đã từ lâu lắm; dễ chừng có cả tiếng đồng hồ rồi. Trời biếc xanh, lác đác những khóm mây bông gòn trắng nõn, biển xanh thẫm phía trước, sóng dạt dào xô nhau vỗ vào ghềnh đá tung bọt trắng xóa dưới chân. Tất cả như cùng cuốn hút nàng vào cái bao la mịt mùng bí mật. Ở một góc nhìn từ bên sườn dốc đá, thấy nàng nhạt nhòa trong nắng như một phần của núi non đã hóa thạch từ ngàn năm trước. Người con gái, như tượng đá, mong hoài một điều không bao giờ xảy ra; một ước mơ không bao giờ thành sự thực; hay nàng đứng chờ trông một người đã mịt mù bóng chim tăm cá?
Ngày Hiền Phụ hay là Ngày Lễ Cha (Father’s Day) rơi vào ngày Chủ Nhật thứ 3, tháng 6 hàng năm tại Hoa Kỳ, được Tổng Thống Lyndon Johnson chính thức công nhận là ngày lễ quốc gia từ năm 1966, sau đó Tổng Thống Nixon ký thành luật, ban hành năm 1972. Theo lịch sử Hoa Ký, vào năm 1909, bà Sonora Smart Dodd lúc đó 27 tuổi, sau khi nghe diễn thuyết về ngày Lễ Mẹ tại đền Spokane tiểu bang Washington, bà nảy sinh ý muốn có một ngày đặc biệt để tôn vinh người cha, vì cha cũng xứng đáng được tôn vinh như mẹ. Tư tưởng này xuất phát từ lòng can đảm, sự hy sinh và tình thương dành cho các con của cha bà là ông William Smart. Vợ chết ngay khi sinh đứa con thứ 6 vào năm 1898, ông William Smart đã ở vậy, một mình nuôi 6 đứa con ở một nông trại miền Đông tiểu bang Washington Hoa Kỳ.
Tình yêu không phải là thứ ngôn ngữ nói ra, mà là ngôn ngữ để giữ kín! Tôi đã chôn kín hình ảnh đẹp nhất một đời người. Bây giờ người con gái năm xưa đang ở đâu, sống ra sao trong vạn nẽo đường trần hệ lụy. Có còn nhớ cơn mưa bong bóng chiều nào nơi hiên ngôi chùa nhỏ? Có còn tìm thấy những cơn mưa bong bóng bên đời? Hay tất cả đã phôi pha, đã trôi theo những giọt mưa bong bóng một thời đã mất?
Sau khi đội chiếc mũ beret đen lên đầu ông Hậu bước ra ngoài, thấy lòng thoải mái hẳn ra, ở trong nhà này toàn là “luật lệ” ăn cơm đúng giờ, đi ngủ đúng giấc, con dâu “kiểm tra” ông từng tí một “Ủa hôm nay sao ba tắm trễ, tắm vào buổi tối dễ bị cảm lạnh đó ba.” Con trai cũng “để ý” ông từng tình huống: -“Tối qua ba thức khuya quá, 12 giờ đêm con dậy đi tiểu thấy phòng ba còn sáng đèn. Ba nên ngủ sớm dậy sớm tốt cho sức khỏe”. Ông có niềm vui với computer lúc đọc báo xem tin tức, xem you tube mọi đề tài, lúc nghe nhạc, lúc vào group trò chuyện với bạn bè gần xa, ngồi với computer cả ngày cũng chưa chán. Thế mà con cũng… phê phán.
Ờ ờ thì số này đây, nhà này đây, lúc trước kia ông đã lên vài lần mà, ông đâu có lầm, mà nay sao thấy là lạ… hình như chúng đã phá bỏ cây hoa bông giấy phía trước, thay vào đó là một hàng rào thưa trống vắng… đúng là số nhà đó mà. Ông săm săm mạnh bạo đẩy cổng… thì bất chợt hai đứa cháu nội, Hiền và Nghĩa, cũng bật tung cánh cổng chạy ùa ra đón ông, vừa đón ông, vừa như chúng ngăn lối vào, mỗi đứa nắm cứng một bên tay ông, giữ lại, miệng lắp bắp: Nội, nội lên Sài Gòn sau không báo tụi con? - Nội, nội đừng vô nhà, bị… bị má con đi vắng!
Thị trấn ấy vô cùng nhỏ bé. Một con đường chính viền hàng cây phong với vài ba ngã tư đèn xanh đèn đỏ. Từ đó mọc lan ra những con đường nhỏ, quanh co vào những khu xóm thưa người. Vì vậy khu rừng sau nhà là nơi tôi lui tới thường xuyên. Một tấm bảng với hai chữ “Dead End” gắn trên cây cột gỗ chôn ở bìa rừng. Một lối mòn vắt trên cỏ dại, bò quanh co giữa những tàng cây cao và bụi rậm với dây leo chằng chịt. Tôi thường mò mẫm một mình trên lối mòn ấy cho đến khi đám dây leo vắt ngang, chặn mất lối đi và cỏ dại xóa hết lối mòn. Dọc lối mòn quanh co ấy, thỉnh thoảng có một tảng đá nằm trơ trọi giữa cỏ cây rậm rạp, như thể ai đó đặt sẵn chỗ nghỉ chân cho những kẻ rong chơi. Và rải rác đó đây một loài hoa lạ. Loài hoa có bốn cánh mở ra vào ban mai và khép lại khi chiều xuống. Những bông hoa phảng phất mùi quế. Loài hoa lạ lùng dường như chỉ mọc trong cánh rừng ấy
Có lẽ mưa đã đổ xuống thành phố Paris vào lúc ban khuya nên khi tôi choàng tỉnh dậy lúc năm giờ sáng, ra khỏi giường để bước tới cửa sổ vén màn che nhìn ra ngoài thì thấy trời vẫn còn mưa...
Thời gian qua mau trên những trang nhật ký đọc vội dưới ánh sáng hoàng hôn. Những dòng tình cảm của quá khứ sống lại trong từng con chữ...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.