Hôm nay,  

Ba Tôi

14/06/202400:00:00(Xem: 2920)
                                  
Ba toi
 
                                  
                                  Công cha như núi Thái Sơn
                                  Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra…
                                                         (Ca dao)
  
Ngày Hiền Phụ hay là Ngày Lễ Cha (Father’s Day) rơi vào ngày Chủ Nhật  thứ 3, tháng 6 hàng năm tại Hoa Kỳ, được Tổng Thống Lyndon Johnson chính thức công nhận là ngày lễ quốc gia từ năm 1966,  sau đó Tổng Thống Nixon ký thành luật, ban hành năm 1972. Theo lịch sử Hoa Ký, vào năm 1909, bà Sonora Smart Dodd lúc đó 27 tuổi, sau khi nghe diễn thuyết về ngày Lễ Mẹ tại đền Spokane tiểu bang Washington, bà nảy sinh ý muốn có một ngày đặc biệt để tôn vinh người cha, vì cha cũng xứng đáng được tôn vinh như mẹ. Tư tưởng này xuất phát từ lòng can đảm, sự hy sinh và tình thương dành cho các con của cha bà là ông William Smart. Vợ chết ngay khi sinh đứa con thứ 6 vào năm 1898,  ông William Smart đã ở vậy, một mình nuôi 6 đứa con ở một nông trại miền Đông tiểu bang Washington Hoa Kỳ. Ngày Lễ Cha do bà Sonora vận động được tổ chức lần đầu tiên ở tiểu bang Washington vào ngày 19 tháng 6 năm 1910 là ngày sinh nhật của William Smart đến nay (2024) đã là  114 năm, được trên 50 quốc gia trên thế giới hưởng ứng, trong đó có Việt Nam.
 
Biết được trường hợp của ông William Smart tôi hết sức ngạc nhiên, vì trường hợp của William sao mà giống với trường hợp của ba tôi quá. Năm 1954 mẹ tôi mất khi đứa em út của tôi vừa tròn một tuổi. Ba tôi 36 tuổi, cũng ở vậy một mình nuôi 6 đứa con thơ nhỏ dại, đứa lớn nhất là anh hai tôi, lúc đó mới có 12, còn tôi 11. Sau khi mẹ tôi mất, ba  mới đùm túm bày con côi cút trở về quê, cất một căn nhà nhỏ ở khu vườn hoang vắng làm việc đồng áng ở địa danh gọi là Cầu Nước Trong,  xã An Lợi, huyện Long Thành,  cách Sài gòn 60 cây số về hướng Đông. Hoàn cảnh của ba tôi khó hơn William Smart rất nhiều: Ba phải nuôi dưỡng 6 con, toàn là trai mà đứa lớn nhất mới có 12 tuổi còn William cũng nuôi 6 con nhưng đứa con đầu là gái lúc đó đã là 16, chắc hẵn đã biết chăm sóc các em và đỡ đần cho ba tốt hơn là một cậu trai 12 tuổi như anh hai tôi!
 
Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về
 
Về Gia Định là về quê ngoại tôi, còn về Đồng Nai là về quê nội tôi. Ông nội theo Tây học, là người có chức sắc ở địa phương, sinh tất cả 10 người con mà ba tôi là con thứ tám, sinh năm 1918 tại Long Thành. Ông nội là người có học, có chức quyền nhưng không hiểu  sao con ông không ai học cao hết, nhất là mấy cô tôi, ngoại trừ ba tôi là biết tiếng Pháp, đẹp trai mà lại hiền lành, được ông cưng nhất. Trong một lần từ Sàigòn đi Long Thành bán vé tiết kiệm, ông ngoại tôi đã “chấm” ngay ba tôi. Chấm có nghĩa là ở trong bụng ưng ý, chọn ba tôi làm phò mã, làm con rể mà chưa nói ra. Thế là ông ngoại dẫn ba tôi lúc đó mới ngoài hai mươi, lên Sài gòn, về quê ngoại, giới thiệu với gia đình, để cho má tôi, là trưởng nữ  “coi mắt” ba tôi, và… chuyện gì đến đã đến. Ngặt một nỗi là ông nội không bằng lòng làm sui với ông ngoại, chê ông ngoại không ngang “vai vế” và nhỏ tuổi hơn ông, cho dầu ông ngoại là người  “văn hay, chữ tốt” và rất tinh thông Hán học. Ông ngoại nhờ không biết bao nhiêu người có uy tín đến thưa chuyện cùng ông nội nhưng ông đã quyết định không là không. Thành thử đám cưới ba tôi chỉ một tay bà nội tôi lo, còn ông nội tôi không ngó ngàng gì tới! Má tôi về làm dâu với gia đình ông nội là trăm bề cay đắng, cho dầu được bà nội che chở và yêu thương hết mực. Năm sau mẹ sanh anh hai tôi, thể trạng ốm yếu, đau bệnh hoài. Bà nội nghe lời thày bói nói anh hai tôi phải là con nuôi của má mới là tốt!? Thế là bà nội mới đi tìm một người ăn mày, cho tiền họ, bảo họ giả bộ nhận anh hai tôi làm con, sau đó má tôi mới đến xin về làm con nuôi với hy vọng anh hai tôi hết bệnh. Ông ngoại đặt cho anh hai tôi một cái tên rất đẹp và ý nghĩa là Nguyễn Thành Kỉnh nhưng bà nội tôi đặt tên lại là Chỏi, để cho anh hai tôi có thể chống chỏi, vượt qua được cơn bệnh hoạn.
 
Tôi biết bà nội còn ông nội thì không, vì ông mất từ lâu. Những chuyện về ông phần lớn là nghe các cô tôi kể lại. Nổi bật nhất là sự khó tính của ông nội và lòng yêu thương vô bờ bến của bà nội với các con, bất kể đó là dâu hay rể! Có một lần nửa đêm cả nhà đang ngủ, ông nội tôi thèm thịt gà. Ông bèn tự tay bắt gà làm thịt, nấu cháo. Xong xuôi ông mới đánh thức mọi người dậy để cùng ăn với ông trong lúc các bác, các chú và cô tôi thèm ngủ chớ đâu có thèm ăn, Ai không dậy nổi ông cũng không tha mà lấy roi mây quất vào đít cũng phải tỉnh ngủ thôi. Nghe nói ông nội tôi còn có roi cá đuối, không biết để đánh ai? Vậy mà cũng có người đi trốn, tìm chỗ ngủ tiếp chớ đâu có ăn! Bà nội tôi khi về già thì được các cô tôi rước về nuôi nhưng bà không thích ở hẳn với đứa con nào mà chỉ ở với người này một vài tháng rồi người kia một vài tháng, cứ thế mà xoay vòng tròn cho đến giáp năm. Có lẽ bà nội tôi nghĩ như thế mới là công bằng? Đúng vậy, sự công bằng có kèm theo lòng yêu thương nữa:  Mỗi khi bà nội tôi được bàn giao cho cô nào thì mấy cô bắt bà ngồi vào cái thúng, móc vào một cái cân tạ, loại cân heo để cân xem bà tăng ký hay sụt ký. Trường hợp thấy sụt ký thì bà lén bỏ chì vào, gọi là “bù chì” cho bằng trọng lượng của lần cân trước. Hỏi để làm gì thì bà nói để cho các cô tôi vui vẻ với nhau, ai cũng nuôi bà nội tốt hết, nếu không thì các cô tôi phân bì, phiền trách, châm biếm và mỉa mai nhau, khổ lắm!
 
Ông nội nghiêm khắc, bà nội thì dễ dãi, sanh ra ba tôi “ hiền như cục bột ”. Thấy anh hai tôi bệnh hoài không hết, má tôi mới quyết định ẫm anh tôi về quê ngoại tìm thày chữa trị. Ba tôi không có lựa chọn nào khác hơn là phải theo má tôi về quê vợ, cuộc đời lật sang trang mới. Nghe đâu quê ngoại tôi ở miệt Cần Giờ, Cần Đước, sau này mới tản cư lên xã Phú Xuân Hội, huyện Nhà Bè, tỉnh Gia Định, cách Sài gòn theo đường chim bay chừng 7 cây số. Bên ngoại  thì có ông bà ngoại và cậu Tám. Tôi đã được sanh ra ở đây vào năm Quý Mùi 1943. Má tôi có sạp bán trái cây ở chợ Cầu Muối. Bà đẻ hầu như năm một. Thường thì ba đặt tên cho con. Nhưng ở đây ông ngoại mới là người đặt tên cho anh em tôi: NguyễnThành Kỉnh, Nguyễn Đức Đạo, Nguyễn Thế Nhân,  Nguyễn Hữu Lý, Nguyễn Kim Lưu, Nguyễn Hữu Thời. Má tôi đẻ đứa nhỏ thì gửi đứa lớn về cho bà ngoại nuôi, bà là một bà Mẹ Việt Nam tuyệt vời. So với bà nội thì bà ngoại tôi đau khổ, bất hạnh gấp trăm ngàn lần. Sanh 9 người con nhưng cuối cùng ai cũng bỏ bà ra “đi” hết. Thời gian đầu ba tôi làm ở hãng xăng dầu Shell Nhà Bè với cậu Tám tôi. Từ Sài gòn, ba được xe của hãng đưa rước đi làm hàng ngày. Mỗi sáng tôi ra mé lộ trước nhà canh đúng giờ xe chạy ngang qua để xem coi có trông thấy ba tôi không. Khi xe chạy ngang qua, ba tôi thường thảy xuống cái gói đồ ăn mà má tôi đã làm sẵn cho anh em tôi. Hơn sáu chục năm rồi mà tôi vẫn còn nhớ như mới ngày nào, những con dế cơm lăn bột chiên, trong bụng có nhét những hạt đậu phộng dòn rụm và béo ngậy mà ba tôi đã thảy xuống cho tôi. Có lẽ ba đã bắt những con dế này ở bờ tường, cột đèn đem về cho má tôi làm thành món ăn đặc biệt cho anh em tôi.
 
 Khi phong trào Việt Minh nổi dậy, không nhớ là năm nào, cậu Tám tôi bị Tây bắt. Thời gian sau cậu được thả ra, ông ngoại tôi sợ quá mới lên Sàigòn, qua vùng Khánh Hội mua đất cất hai căn nhà kế nhau ở đường Tôn Đản, một căn cho ông bà và cậu, một căn cho gia đình ba tôi. Bà ngoại vẫn tiếp tục chăm sóc anh em tôi, còn ba thì bán vé xe buýt cho “Công Quản Chuyên Chở Công Cộng Đô Thành Sài gòn Chợ Lớn”. Ngoài giờ làm việc thì ba phụ bán trái cây với má chớ không bạn bè, đờn ca, hát xướng, văn chương, thi phú như cậu Tám tôi. Khi nào rỗi rảnh thì cậu chở ba đi chỗ này chỗ kia bằng chiếc mô-tô to đùng của cậu. Nếu cậu Tám tôi “bay bướm” bao nhiêu thì ba hiền lành bấy nhiêu. Có những lần ba thất nghiệp ở nhà phụ má tôi rất nhiều, vậy mà bị bà cằn nhằn dữ lắm. Tôi vẫn còn nhớ mãi một câu, ba không nói với ai được, nên phân trần với tôi: “Má mầy nấu cơm khét mà cũng đỗ thừa cho ba”. Không hiểu sao trên đời này lại có người hiền lành đến như vậy. Trong các anh em tôi, người giống tánh ba nhiều nhất là đứa em thứ năm của tôi. Con trai tôi cũng thừa hưởng cái gen của ông nội là hiền lành quá đổi! Hiền lành là một yếu tính của đạo đức nhưng hiền quá chỉ nhận về mình nhiều thua thiệt, khó mà thành công, vươn lên được với đời mà người tốt thì ít, người xấu thì nhiều.

Ông ngoại, cậu Tám và má tôi mất chỉ trong vòng hai năm là một tai họa khủng khiếp giáng xuống bà ngoại tôi và là một bước ngoặt quan trọng đối với ba tôi. Má tôi mất khi đứa em thứ 5 của tôi mới có 4 tuổi. Lúc tẫn liệm má thì em gào thét, khóc lóc dữ dội, không cho mọi người bỏ má vào hòm. Ba tôi thì ghì chặt, vuốt đầu, vỗ về, an ủi em tôi. Hình ảnh này làm sao tôi quên được? Khi viết tới đây thì mắt tôi đã tràn đầy ngấn lệ… Sau đám tang má, một người bà con bên ngoại mới nhận đứa em thứ sáu của tôi về nuôi giúp ba tôi cho ba bớt gánh nặng. Lúc đó em tôi hai tuổi, thể trạng rất yếu và thường hay bị động kinh. Trải qua tuổi thơ đầy cay đắng, sau này em tôi viết tự truyện nói “Mẹ là không có thật trên đời ”! Bà ngoại cùng theo về với mấy người bà con bên ngoại. Trong lúc tang gia bối rối thì ba bị hãng xe buýt cho thôi việc, ông buộc phải dắt 5 anh em tôi về quê Long Thành. Đại gia đình chúng tôi tan đàn, xẻ nghé kể từ ngày đó.
 
Hơn một năm tá túc ở nhà người cô Năm, ba tôi mua lại một mảnh đất ở Cầu Nước Trong, cất căn nhà nhỏ, mặt tiền hướng ra quốc lộ 15, vừa làm vườn, vừa làm “gà trống nuôi con”. Gọi là làm vườn chớ thật ra vườn tược trong nhiều năm cũng chẳng mang lại hoa lợi gì đáng kể, một phần vì đất đai khô cằn không màu mỡ, phần khác ba tôi không phải là dân làm vườn chuyên nghiệp.Thời gian này mấy cha con sống nhờ tiền cho thuê căn nhà đường Tôn Đản và cái sạp bán trái cây của má tôi để lại. Hàng ngày ba tôi đào mương, cuốc đất, trồng cây thì anh em tôi xuống suối bắt ốc, hái rau hoặc lên rẫy đào củ mài, củ sắn. Cứ thế, thời gian trôi đi, ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác… Nhờ trời thương, anh em tôi không đau yếu bênh hoạn gì cả mà vẫn dũng cảm lớn lên như những bông hoa dại trong vườn. Thấy ba tôi cực khổ quá, mấy cô tôi ai cũng đốc thúc ba tôi lấy vợ để bớt cô quạnh và có người chăm nom, săn sóc gia đình. Ba nói để anh em tôi lớn lên rồi sẽ tính chớ cưới vợ bây giờ ba rất sợ cảnh “mẹ ghẻ ” ăn hiếp con chồng. Vậy mà cô Chín tôi tài khôn, từ Sài gòn dẫn về một bà, giới thiệu cho ba tôi. Ba đâu có chịu. Lại một trường hợp khác, y như chuyện thần tiên, chuyện cổ tích: Có một người người trông rất sáng sủa, hiền lành, nước da trắng, ăn mặc không sang trọng nhưng gọn gàng, không biết từ đâu, hễ ba tôi vắng nhà là xuất hiện. Bà mang cho chúng tôi bánh trái, rồi sắp xếp đồ đạt, quét dọn nhà cửa từ trong ra ngoài rất sạch sẽ, tươm tất rồi ra đi. Bà xuất hiện nhiều lần như vậy rồi sau đó không thấy trở lại nữa. Tiếc là lúc đó tôi không nói chuyện với bà, cũng không hỏi ba. Câu chuyện đi vào quên lãng, bây giờ ngồi viết mới nhớ lại. Một ý nghĩ thoáng qua, hay là má tôi xuất hiện? Nhưng mà má tôi nước da ngâm đen chớ đâu có trắng như người đàn bà bí mật kia. Không biết là ba và mấy em tôi có biết chuyện này hay không?
 
Đứa em thứ 6 của tôi cuối cùng cũng được đưa về sum họp với gia đình. Không nhớ là năm nào, chỉ nhớ khi về “nhập bầy” với anh em chúng tôi thì em kêu ba bằng Anh Hai, thấy xe chạy trên đường thì nói là tàu vì nơi em được nuôi lúc nhỏ chỉ toàn là sông rạch, người ta đi lại bằng ghe, thỉnh thoảng cũng có thấy những chiếc tàu. Thời gian ở Long Thành mấy em tôi học trường làng, tôi và anh hai đi học tiểu học ở quận, bằng xe đạp, xa nhà 4 cây số. Mỗi ngày ba tôi dậy sớm nấu cơm cho anh em tôi mang theo ăn trưa ở trường, đến chiều thì đạp xe về nhà. Hết lớp nhất, anh hai tôi thi đậu vào trường Trung học Ngô Quyền, Biên Hòa, còn tôi tiếp tục học trường tư ở quận vì quá tuổi, không thi vào đệ thất ( lớp 6 ) trường công được.

Về quê làm vườn và làm gà trống nuôi con được mười năm, ba tôi được hãng xe buýt kêu trở lại làm việc. Lên Sài gòn ba tôi đòi lại nhà đường Tôn Đản để đưa anh em tôi lên ở. Người ta không trả nhà mà cũng không trả tiền thuê nhiều tháng. Ba phải nhờ luật sư đưa họ ra tòa xin án lệnh trục xuất. Vụ việc kéo dài nhiều năm mới giải quyết xong. Trong lúc đi làm mà chưa đòi lại được nhà không biết ba tôi ở đâu mà cứ mỗi tuần vào chiều thứ bảy thì ba về thăm chúng tôi để rồi chiều chủ nhật ra con lộ trước nhà đón xe đò lên Sài gòn cho kịp đi làm ngày thứ hai. Sáu giờ chiều ba mới về nhưng mới hai giờ trưa thì tôi và bốn đứa em (anh hai tôi học ở Biên Hòa chưa về) đã ra ngồi thành hàng một trước hiên nhà, hướng mắt ra quốc lộ  15 để trông ngóng ba tôi, hy vọng sẽ nhìn thấy một chiếc xe đò nhỏ vừa qua khỏi Cầu Nước Trong thì chậm lại rồi ngừng hẵn: một người đàn ông vóc dáng trung bình, cao độ một thước sáu mươi lăm, áo sơ mi trắng bỏ ngoài, quần tergal màu xanh lợt, một tay cầm ổ bánh mì, tay kia xách con vịt quay, bước xuống. Ba tôi đó! Có những thứ tình cảm mà chữ nghĩa không thể diễn tả và diễn tả hết được. Một em bé ngồi ở ngạch cửa chờ mẹ đi chợ về chỉ trong chốc lát đã thấy dài vô tận. Còn anh em tôi phải chờ đến bảy ngày mới gặp lại ba thỉ nỗi khát khao, vui mừng kia nó to lớn đến mức độ nào?  Ba tôi vì hoàn cảnh phải để bầy con thơ dại sống một mình trong căn nhà nhỏ giữa đồng không mông quạnh thì sự nhớ thương, lo lắng và nóng lòng của ba biết lấy gì mà đo lường được? Khi ba về mà có anh tôi về nữa thì thật hạnh phúc. Ba dắt chúng tôi ra dòng suối trước nhà tắm giặt, nô đùa thỏa thích, ba dẫn chúng tôi đi chợ Long Thành mua thức ăn dự trữ cho một tuần. Trước khi trở lên Sài gòn bao giờ ba cũng kho để lại cho anh em tôi một nồi thịt có trứng vit. Niềm vui 24 giờ của chúng tôi trôi qua rất nhanh vì đến chiều chủ nhật thì anh tôi trở lên Biên Hòa còn ba thì đi Sài gòn tiếp tục bán vé xe buýt. Khi nhìn anh và ba chuẫn bị đồ đạc lên đường bao giờ tôi cũng chảy nước mắt, hình như tôi biết buồn kể từ ngày đó, nhưng chưa bao giờ tôi để các em nhìn thấy. Tôi là người rất nhạy cảm và dễ xúc động nhưng trước mặt mọi người bao giờ tôi cũng tỏ ra cứng rắn.
 
Không nhớ năm nào thì ba lấy nhà lại được và rước chúng tôi lên Sàigòn. Có lẽ lúc đó tôi hai mươi tuổi, vì bài thơ đầu tiên tôi làm đăng báo ở Sàigòn có tên là Tuổi Hai Mươi. Chỉ trừ anh hai tôi là vẫn tiếp tục học trường công ở Biên Hòa còn tôi và các em đều học trường tư, trường Hưng Đạo ở đường Cống Quỳnh, gần chợ Thái Bình và rạp chiếu bóng Khải Hoàn bên quận 1. Chỉ việc lo áo quần, sách vở và học phí cho năm anh em tôi chắc ba cũng mệt.  Thời gian sau, khi việc nhà cửa và việc học của chúng tôi ổn định thì ba về quê ngoại, tìm và rước ngoại lên ở chung với chúng tôi. Vậy là hơn mười năm bà cháu tôi mới sum hợp lại, mừng mừng tủi tủi, có bút mực nào mà tả cho hết. Lúc má tôi còn sống, ngoại đã nuôi dưỡng và chăm sóc chúng tôi, hai mươi năm sau bà lại tiếp tục khổ cực vì chúng tôi! Thấy sức khỏe của ngoại ngày càng suy giảm, ba mới xin phép ngoại cho ba tục huyền để có người phụ ngoại lo việc chợ búa, cơm nước, coi sóc gia đình và ngoại đồng ý. Người này ở xã An Lợi, hiền lành và ít nói, có lẽ do cô Năm tôi giới thiệu. Ngày rước dì tôi lên, ba đốt nhang khấn vái trước bàn thờ của má, ba sai tôi qua nhà bà Năm bên cạnh mua một xị rượu, ba và dì làm lễ với ngoại dưới sự kiến của mấy anh em tôi. Buổi “lễ cưới” cực kỳ đơn sơ nhưng trang nghiêm và xúc động. Anh hai và đứa em út của tôi thì hân hoan còn tôi thì có cảm giác bâng khuâng khó tả, không buồn mà cũng không vui, mặc dầu tôi hoàn toàn tán thành việc tục huyền của ba, thật ra trước đó ba đã hỏi ý kiến của mấy anh em tôi rồi. Có dì thì ba bớt cô đơn và mệt óc, ngoại cũng đỡ vất vả. Rồi một ngày, ngoại lui về Phú Xuân cất một căn nhà nhỏ, giống như cái am bên cạnh nhà ông Năm, em của ngoại, ngày đêm tụng kinh niệm Phật, khi nhớ cháu thì bà lên thăm. Anh Hai tôi từ Biên Hòa cuối tuần đạp xe về Sàigòn sum hợp với gia đình. Ít lâu sau anh mất vì bệnh.
 
Gia đình tôi ổn định được 5 năm thì ba tôi lại bị cho nghỉ việc, vừa lúc tôi thi đậu tú tài phần 2, nghĩa là vừa xong trung học. Lần này ba quyết định cùng với dì trở về quê, sửa lại căn nhà, chăm sóc lại mảnh vườn đã hoang phế từ nhiều năm. Năm anh em tôi lại sống một mình. Lần này không phải là nơi đồng không mông quạnh mà là giữa lòng đô thị với tất cả phức tạp và nghiệt ngã của nó. Thật là may, ngay khi ba tôi bị nghỉ việc và trở về quê thì tôi được nhận vào làm thông dịch viên tại Ty Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh Bình Dương, cách Sàgòn 30 cây số, với số lương khá cao. Sở dĩ tôi làm được điều này là vì ngoài giờ học phổ thông buổi sáng ở trường Hưng Đạo, ba đã cho tôi học thêm Anh Văn vào buổi chiều, suốt bốn năm cuối trung học. Nếu trước đây ba từ Sài gòn về Cầu Nước Trong thăm chúng tôi vào cuối tuần thì đến phiên tôi, từ Bình Dương tôi về thăm các em tôi ở Sài gòn cũng vào cuối tuần. Tuần nào tôi không về được thì đứa em kế lên chỗ tôi ở trọ lấy tiền về chi dùng. Trong thời gian này, cùng lúc tôi chịu hai áp lực, một là gánh nặng gia đình, hai là bị gọi đi lính. Tôi được hoãn dịch vì lý do học vấn. Nếu năm nào tôi rớt một chứng chỉ ở trường Luật thì phải trình diện nhập ngũ ngay. May mắn cho tôi, vừa làm vừa học cực kỳ gian nan, vậy mà sau 4 năm tôi cũng có được mảnh bằng Cử nhân Luật. Kế đến một may mắn nữa là tôi trúng tuyển vào Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam, ngạch chuyên viên, lương cao không thua gì lương dân biểu hồi đó. Hàng tháng, ngoài chi phí học hành, chi tiêu trong gia đình cho mấy đứa em, tôi còn giúp được ba. Thường thì mỗi tháng ba lên Sàigòn, ghé thẳng ngân hàng gặp tôi để nhận tiền. Đến “Mùa Hè Đỏ Lửa” năm 1972 luật tổng động viên ban hành, tôi giã từ ngân hàng, nhập khóa 1/72 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Ra trường đi tác chiến hai năm, tôi được biệt phái về lại ngân hàng cho tới ngày 30-4-1975.
 
Sau gần ba năm đi “học tập cải tạo” trở về thì ngoại tôi mất, hai em thứ tư và thứ sáu thì “hồi hương” về Long Thành làm ruộng với ba, căn nhà và miếng vườn ở Cầu Nước Trong cũng không còn. Quan trọng hơn là sự chia tay giữa ba và bà dì. Bà trở về sống với con bà, ba tôi thì sống với hai em tôi. Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra. Ba không nói, tôi cũng không hỏi. Khi được “tạm tha” về nhà, tôi bị công an địa phương áp lực nặng nề. Họ bắt tôi trình diện mỗi tuần và hối thúc tôi đi  “kinh tế mới” như  “giấy ra trại” đã ghi. Họ bảo tôi phải “chấp hành”. Tuy vậy, tôi không chịu thua họ, không đầu hàng hoàn cảnh mà cải thiện hoàn cảnh, bằng mọi cách phấn đấu để vươn lên. Kết quả: tôi được nhập lại hộ khẩu, làm việc ở nhiều cơ quan nhà nước khác nhau, kể cả ở ban Tài Chánh Quản Trị thành ủy Sài gòn, giúp họ cải tiến công tác quản lý các công ty xuất nhập khẩu của đảng. Khi nhà nước cho phép các ngân hàng thương mại cổ phần hoạt động, tôi “nhảy ra” làm việc cho nhiều ngân hàng với nhiều chức vụ quan trọng, như khi tôi giúp nhóm tư bản Đài Loan, xây dựng cho họ một ngân hàng, họ tin tưởng, bổ nhiệm tôi làm Tổng Giám Đốc. Căn nhà cây vách ván ở đường Tôn Đản mà ông ngoại tôi cất từ thuở nào đã mục nát, được tôi xây lại bằng gạch, đẹp đẽ hơn, khang trang hơn. Rồi tôi về Long Thành rước ba lên ở với tôi. Lúc này tôi đã cưới bà xã và có hai con.
 
 Vào một buổi chiều mùa Thu, ba than đau bụng. Tôi chở ba đến bệnh viện đa khoa quận. Nơi đây người ta khám qua loa, bảo là đau ruột thừa rồi quyết định chuyển ba lên bênh viện Nguyễn Trải quận 5. Tôi về nhà lấy thêm đồ đạc cần thiết cho ba, đồng thời báo cho đứa em thứ 5, ở nhà đối diện, cùng đi theo ba với tôi. Nếu là đau ruột thừa thì phải mổ ngay. Lấy lý do là ngày chủ nhật không có bác sĩ (?), người ta để ba tôi nằm ôm bụng suốt một đêm. Sáng hôm sau ba bảo tôi cứ đi làm, một mình em tôi ở với ba cũng được. Tôi đi làm mà lòng không yên. Trưa tôi ghé bệnh viện, người ta nói ba tôi đang ở trong phòng mổ, bảo tôi ra hành lang mà chờ. Thời gian chờ đợi dài khủng khiếp. Tôi nghe như có lửa đốt trong lòng. Rồi người ta đẩy ba tôi qua một căn phòng mà từ cửa sổ hành lang tôi có thể nhìn thấy được: Ba nằm bất động trên giường, chằn chịt những dây truyền dịch, dây trợ thở. Tôi thấy ba cô đơn quá, một sự cô đơn tuyệt đối! Tôi muốn chạy đến bên người, nhưng đã “nghìn trùng xa cách”, vĩnh viễn xa cách! Người ta mời tôi vào văn phòng và cho biết ba tôi đã ra đi! Bầu trời trước mặt tôi đã sụp đổ. Tôi không màng hỏi xem ba tôi mất vì lý do gì và suốt đời tôi không biết vì lý do gì!
 
Ba tôi mất ở tuổi 73. Nếu có ai hỏi tôi cư xử như thế nào với ba khi người còn sống thì tôi trả lời đã làm hết những gì có thể. Tuy nhiên, có một điều quan trọng tôi rất ân hận là nói chuyện với ba ít quá. Đáng lẽ tôi phải nói chuyện với ba nhiều hơn, để hiểu ba hơn và chia sẻ với ba những nỗi niềm, ưu tư trong cuộc sống. Và, buồn nhất là trong giờ phút lâm chung của ba không có đứa con nào có mặt. Ba tôi có đầy đủ phẩm chất của một người cha (như Willam Smart) mà cả thế giới ngưỡng mộ, lấy làm biểu tượng và dành một ngày trong năm để vinh danh, gọi là ngày Từ Phụ. Các phẩm chất đó là lòng can đảm, sự hy sinh và tình thương cao cả dành cho các con. Ngoài ra, ba tôi còn là một người rất nhân hậu và đạo đức. Đây là một di sản quý báu, đáng tự hào mà anh em chúng tôi đã thừa hưởng và phát huy được từ một người cha khả kính, đúng như nhận định rất chính xác của đứa em út : “Dầu không thành đạt gì về vật chất. Nhưng tất cả đều đã sống lương thiện, đàng hoàng, biết yêu cái đẹp và còn có thể làm ra cái đẹp nữa”.
 
Duy Nhân 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bây giờ trời đã tối, nhiều người đi ngủ sớm. Bọn trẻ học bài dưới bóng ngọn đèn dầu ở ngoại ô, ngọn đèn đường gần bờ sông. Trước hàng rào kẽm gai, một người lính mang súng đi đi lại lại, một đôi tình nhân đi chơi về muộn. Ngọn đèn hỏa châu sáng bừng góc trời một lát rồi tắt. Người yêu quê hương đã đi ra khỏi mảnh đất của những hận thù dai dẳng mà vẫn muốn trở về. Người nông dân muốn cày lại thửa ruộng của mình. Người thợ sửa đồng hồ muốn ngồi lại cái ghế vải nhỏ thấp của mình sau tủ kiếng bày đồng hồ cũ và mới. Lò bánh mì chiếu sáng nhấp nhô bóng những đứa trẻ bán bánh mì đứng trước cửa sổ với bao tải lớn đựng bánh nóng mới ra lò. Con chim về ngủ muộn biến mất trong bụi cây chỗ anh đứng.
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.