Hôm nay,  

Thiên đường Maldives

05/08/202408:48:00(Xem: 3825)

blank


Trước năm 1975, ngày đó tôi còn là một cậu thiếu niên ham thích đọc tiểu thuyết trinh thám mạo hiểm của Người Thứ Tám với nhiều câu truyện phiêu lưu, hồi hộp của chàng điệp viên Z-28 đào hoa, đẹp trai Tống Văn Bình. Tôi còn nhớ chàng điệp viên tài giỏi, võ nghệ siêu quần của chúng ta được phái đi thi hành một nhiệm vụ tình báo tại Maldives, một đảo quốc mà khi chúng ta nhìn về phía chân trời, nơi Trời và Biển gặp nhau, vì chính chúng ta cũng đang sống trên mặt nước.

    Maldives là đất nước rất nhỏ bé nằm ở biển Ấn Độ Dương. Quốc đảo này nổi tiếng trên thế giới với những nơi nghỉ dưỡng tuyệt đẹp với những bãi cát trắng mịn, làn nước trong xanh màu ngọc bích và phong cảnh thiên nhiên nhiệt đới vừa tươi đẹp lại vừa lãng mạn. 

    Chúng tôi đáp máy bay từ Malaysia đến Malé, thủ đô của đảo quốc Maldives. Từ trên cao, chúng tôi có thể nhìn thấy thành phố với nhà cửa dày đặc, san sát, chen chúc lẫn nhau trên một hòn đảo nhỏ bé tí, chỉ 3.2 sq.mi (3.2 dặm vuông), với dân số trên 200,000 ngàn người.

    Chúng tôi đón taxi đến khu trung tâm thủ đô và nhận phòng, sau đó đi khám phá thành phố 4 ngày trước khi bay đến khu nghỉ dưỡng. Khách sạn ở đây, phòng bé tí xíu, chật chội nhưng giá cả cũng không mắc lắm. Vào cuối ngày thứ tư, trước khi rời đi, họ tính thêm $3/một người/một ngày cho thuế du lịch. Cũng như bao thành phố du lịch nổi tiếng khác, Malé đường phố chật chội, xe cộ tấp nập, người đông như kiến. Khi mưa xuống, nước thoát không kịp, đường phố ngập nước trở nên dơ bẩn và rác nổi lều bều. 

    Hầu hết người dân ở đây theo đạo Hồi nên đường phố đầy mèo hoang, tuyệt đối không thấy một con chó nào. Mèo nhiều đến nỗi chúng đi lan tràn ra cả đường phố, chúng nằm ngủ lim dim dưới những bóng cây. Nhiều nhà phải để một bình nước pha màu đỏ trước cửa nhà để mèo sợ không dám lai vãng. Chúng tôi thực sự không hiểu tại sao.

    Hòn đảo thủ đô nhỏ thật, “đi dăm phút đã về chốn cũ”, chúng tôi đi bộ một vòng hòn đảo mất gần 3 giờ đồng hồ là hết. Từ đó, chúng tôi đón phà hoặc ghe thuyền đi ra các đảo gần đó để khám phá thêm phong cảnh và để thoát ra khỏi sự chật chội và bức bí của thủ đô. Nhà hàng ở đây cũng nhiều nhưng không ngon miệng lắm. Chúng tôi thử nhà hàng Thái Lan với cái tên Sala Thai, khi ngồi xuống coi thực đơn mới hay họ tính tiền nước uống cũng khá mắc và đặc biệt nhà hàng này tính thuế 16% chứ không phải 8% như các nhà hàng khác. Hỏi tại sao thì họ trả lời lòng vòng, không thỏa đáng.

    Một điều nên nhớ Maldives là một đất nước toàn là đảo, họ không có nguồn nước ngọt. Từ trước tới giờ, Ấn Độ là nước bảo hộ cho Maldives từ chính trị, quân sự, cho đến văn hóa, nói chung là toàn bộ cuộc sống của người dân nơi đây. Ấn Độ cung cấp nước ngọt bằng tàu thủy chở ra, nay chính quyền mới lên ở Maldives hất cẳng Ấn Độ và bắt bồ với ông “trọc phú” Trung Cộng, tiền bạc rủng rỉnh, nhưng không mấy tử tế và nhận nước ngọt từ ông trưởng giả mới nổi lên này. 

    Ấn Độ cay cú vì “cô em xinh đẹp” Maldives đá đít mình đi theo anh bồ mới lắm tiền nhiều của. Quân đội Ấn bị mời ra khỏi nước và họ rước ngay anh bồ mới vào đầu tư khắp nơi trên đất nước. Cái cổng chào và cũng là cây cầu đánh dấu mối tình thắm thiết mà người yêu Trung Cộng xây tặng đứng sừng sững trước khi vào thủ đô. Các công trình xây cất toàn tiếng Tàu. Vì thế nước uống ở đây mắc mỏ hơn so với Pepsi hay Coca Cola. 

    Mấy ngày đi nát cái thủ đô Malé, chúng tôi đi chợ coi cuộc sống ở đây ra sao. Trái cây mắc hơn nước lạnh rất nhiều, cá biển tưởng rẻ, nhưng không, dù biển ở sát bên hông chợ cá, cái gì cũng mắc. Nếu quý vị tính đi biển thì nên sắm sửa từ ở nhà vì vật dụng ở đây mắc gấp đôi. Chúng tôi đi kiếm các nhà hàng địa phương, giá cả rẻ hơn các nhà hàng lớn rất nhiều. 

    Có một điều gây bực mình cho du khách là cứ mỗi ngày thứ sáu trong tuần, tất cả các nhà hàng đều đóng cửa, chúng tôi đói meo vì không có nhà hàng nào chịu mở; thêm nữa, bất cứ ngày nào trong tuần, cứ vài giờ là họ đóng cửa 1 tiếng đồng hồ để cầu nguyện, chúng tôi muốn mua cái gì, phải đợi họ cầu nguyện xong mới mua được.

Không có nhiều điều thú vị hay phong cảnh đẹp ở thủ đô Malé, chúng tôi quyết định làm một chuyến hải du, câu cá và lặn biển ở một hòn đảo xa. Mười người chúng tôi và 6 du khách Ấn Độ trả $100 cho mỗi một người cho chuyến đi này. Chiếc tàu lướt sóng ra khơi, ai nấy lên tinh thần, lo ngắm biển xanh và thích thú nhìn từng đàn cá Heo nhào lộn, vui đùa trên sóng, rất thân thiện. Chúng bơi lội hai bên tàu chúng tôi, rất gần, ai nấy đưa phone lên, tha hồ chụp hình.

    Con tàu giảm tốc độ từ từ và quăng neo giữa biển khơi. Chúng tôi trang bị áo phao, kính lặn để bơi ngắm cá ở rặng san hô. Mấy du khách Ấn Độ thích quá nên xin thủy thủ đoàn lặn xuống, dùng dao cậy một mảnh san hô về làm kỷ niệm. Tôi thấy không đúng nhưng không biết nói sao. Sau khi bơi lội, ai cũng đói, con tàu đưa chúng tôi ghé vào một đảo nhỏ của một làng chài để ăn cơm trưa và mua đồ kỷ niệm.

    Chúng tôi lại tiếp tục cuộc hải trình ra giữa trời mây sóng nước và neo đậu giữa khơi. Chúng tôi từng cặp một, mang áo phao, nhảy xuống nước, và đi bộ đến một bãi cạn san hô, cách con tàu chừng 400 mét, chờ thủy triều lên. Ở đây trời nước bao la, tha hồ chụp hình. Chúng tôi đã chuẩn bị sẵn túi nhựa (water-proof pouch), bỏ điện thoại vào trong bao không thấm nước nên không lo bị hư. Mọi người đứng giữa trời mây sóng nước bao la, đưa phone lên chụp hình đến mỏi tay.

    Lúc này, thủy triều dâng lên ngày càng cao, nước chảy mạnh; tôi thấy nên đi bộ trở về tàu vì bà xã tôi không biết bơi cho dù có áo phao, nhưng thủy thủ đoàn một mực nói không sao. Tôi không nghe và dìu bà xã trở về tàu. Mọi người hình như cũng cảm thấy không an toàn, nên ai nấy cũng lo nhét điện thoại vào bao và nối gót theo sau.

    Quả thật, nước ngày càng chảy mạnh ngược dòng nên chúng tôi rất vất vả khi trở lại trong tình trạng chân bị hổng mặt đất, không có điểm tựa. Vợ chồng Bích-Khang bị trôi lại phía sau, không thể tiến lên được bước nào. Thủy thủ đoàn phải quăng sợi dây cho họ bám và kéo từng người lên tàu. Phải mất 45 phút, tất cả chúng tôi mới an toàn ngồi trên tàu mà thở dốc. Tôi khuyên ai không biết bơi, không nên tham dự chuyến đi này.

    Bầu trời chợt xám đi, gió tháng Năm bắt đầu thổi mạnh, phía xa xa một cơn mưa đang kéo đến. Thủy thủ đoàn yêu cầu mọi người mặc áo phao, họ nhổ neo và quay mũi tàu về Malé. Lúc đi, biển êm, lúc về, biển động. Sóng lắc lư dưa con tàu sàng qua sàng lại như sàng gạo. Mưa to gió mạnh thổi con tàu bạt ngang, thật vất vả cho ông tài công lèo lái con tàu. Rèm hai bên được buông xuống cho hành khách đỡ bị ướt. Tàu chồm lên trên những ngọn sóng cao sủi bọt, thân tàu đập xuống nước thật mạnh rồi chao qua chao lại. ai nấy đều bị ướt sũng và mệt nhoài. Anh Bình trong nhóm chúng tôi lại tiếp tục cho cá … ăn chè như mọi khi, làm mấy hành khách Ấn Độ phải dạt ra hết vì sợ dính… chưởng.
    Con tàu cứ sàng qua lắc lại, chồm lên, tụt xuống, mặt mày ai nấy đều xanh lét tuy không say sóng; cuối cùng rồi ai nấy đều thở phào nhẹ nhõm khi thấy đảo Malé dần hiện ra phía trước. Trời vẫn mưa như trút nước cho đến khi tàu vừa cập bến thì “Ổng” ngưng mưa một cách trớ trêu. Một chuyến hải hành vui vẻ tuy không kém phần phiêu lưu mạo hiểm cho đám “thanh niên” sắp già chúng tôi. Mọi người trong nhóm nói đùa rằng tôi câu được 1 con cá “trị giá” $100 và anh Ấn Độ cũng được 1 con. Vui vẻ cả làng. 

    Trở về thủ đô chật chội, đi bộ ngắm phố xá, con người chán chê, chúng tôi nhận thấy hầu hết dân chúng đều ghét Mỹ vì ủng hộ Do Thái. Họ hỏi chúng tôi từ đâu đến, anh bạn trả lời từ Mỹ, họ giơ ngón tay cái chỉ xuống đất. Họ cố tình lờ đi, không biết rằng dân Palestine đang nhận thực phẩm và đồ dùng nhiều nhất từ Mỹ. Họ không muốn hiểu vì được nhồi nhét trong đầu từ bé là bất cứ thứ gì của Mỹ đều xấu. Tôi quá quen với cảnh này những ngày còn làm việc ở Trung Đông, nên bỏ đi, chẳng thèm để ý.  

    Một chuyện khá vui, có lẽ do dân Maldives thích ăn cà ri hay những gia vị nặng mùi, hoặc khí hậu nóng ẩm, nước ngọt mắc mỏ nên họ ít tắm, thân thể họ đổ mồ hôi, bốc mùi nặng nề, nhất là giữa đám đông chen lấn khiến mấy cô trong nhóm chúng tôi phải “nín thở qua cầu”. Ra khỏi đám đông, thở cái phì một tiếng rõ to, mấy cô than trời, hỏi tôi có ngửi mùi hôi nách của họ không. Tôi đáp gọn một tiếng “không”. 

Cái xui và cũng là cái may của tôi là không ngửi được bất cứ mùi gì từ khi bị Covid đến nay đã 3 năm. Giữa đám đông, trong thang máy hay phòng vệ sinh, nếu có người thả một “trái bom hơi ngạt”, ai khổ sở thì khổ sở, riêng tôi vô sự, hoàn toàn miễn nhiễm. Bởi vậy, trong khi cả nhóm phải vận công phu nín thở, bế môn tỏa khí của Kim Dung tiên sinh, chỉ mình tôi vẫn ung dung, như “em chả biết gì”. Tôi chỉ việc cười khẩy và ngâm câu thơ của Đỗ Trung Quân: ai cũng “ngửi”, chỉ một người không “ngửi”, nên có một gã khờ, hiền lành đứng tỉnh bơ”. (1) 

    Chúng tôi thấy quá đủ phải chen chúc trong thành phố này và nôn nao chờ ngày bay ra giữa biển đến nơi khu thiên đường nghỉ dưỡng nổi tiếng của Maldives. Vào phút chót, chúng tôi được thông báo thay vì đến khu nghỉ dưỡng bằng thủy phi cơ, chúng tôi sẽ đáp một chuyến bay nhỏ, 2 động cơ cánh quạt, De Havilland, sản xuất tại Canada, chuyến bay khoảng 1 giờ rưỡi. Thật là tiếc vì chúng tôi chưa bao giờ được ngồi trên một chiếc thủy phi cơ để trải nghiệm cái cảm giác khi cất cánh và đáp xuống trên mặt nước có khác với trên đường băng bê tông ra sao.

    Từ trên cao, vùng biển Ấn Độ Dương trải dài một màu xanh ngọc bích tưởng như vô tận, được tô điểm bởi nhiều hòn đảo to, nhỏ khác nhau. Nước biển xanh mát mắt, những bãi cát trắng mịn và cảnh sắc thiên nhiên tuyệt vời. Với hơn 1000 hòn đảo, Maldives thu hút du khách từ khắp nơi trên thế giới bằng những “bungalows” trên mặt nước sang trọng, đẳng cấp 5 sao gồm những dịch vụ cao cấp: lặn biển diving, snorkeling, lướt ván, kayaking, và đi thuyền buồm câu cá đêm, thậm chí bơi chung với cá mập.

    Máy bay đáp xuống một phi trường nhỏ xíu, tôi đoán đường băng dài khoảng 5000 feet, chỉ vừa cho những loại máy bay nhỏ lên xuống. Không khí tháng Năm nóng và ẩm ướt. Chúng tôi ai nấy đổ mồ hôi hột. Khu nghỉ dưỡng đưa mấy chiếc golf-carts chạy điện ra đón và đưa chúng tôi về nhận phòng cách đó chừng 3 phút lái xe. 

Một cảnh quan tuyệt vời với những hàng cây xanh mướt làm dịu đi cái nóng mùa Hè. Xe chạy dưới những hàng cây rợp bóng mát đưa chúng tôi vào thiên đường biển xanh. Thủ tục nhận phòng rất nhanh, gọn, và chuyên nghiệp. Nhân viên đồng phục rất lễ phép và lịch sự. Mỗi người điền một tờ giấy với chuyến bay đến và đi để nhân viên sắp xếp chuyến bay cho ngày về. Sau đó chiếc golf cart đưa chúng tôi chạy trên cầu ván gỗ dẫn đến những căn chòi nổi trên mặt biển của mình. 

    Chắc không cần tả nhiều về “túp lều” của mình, chỉ biết rằng nó được trang bị bằng những vật dụng đắt tiền và trang trí rất đẹp. Một dãy dài những căn chòi, mái lợp cỏ tranh, nằm ngay trên mặt nước biển, từ xa giống như những “mái tranh nghèo” nổi trên sóng nước. Trên sàn nhà, có một miếng kiếng nhìn xuyên xuống biển, có thể nhìn thấy cá bơi bên dưới. Tôi cho rằng không quá đáng khi nơi đây được đánh giá đứng nhất của thế giới về khu nghỉ dưỡng và về cảnh quan tuyệt đẹp.

Nước biển trong suốt, cho phép du khách nhìn thấy đáy biển và các sinh vật dưới nước. Những rạn san hô đầy màu sắc và các loài cá nhiệt đới là điểm thu hút chính cho hoạt động lặn biển và snorkeling. Chẳng những đây là một địa điểm lý tưởng để tận hưởng một cuộc nghỉ hè sang trọng, thoải mái; nơi chốn này còn là chốn thần tiên, lãng mạn cho những người yêu nhau hay những đôi vợ chồng mới cưới đi tận hưởng tuần trăng mật. 

    Một đôi tình nhân, tay trong tay, dạo bước trên bãi cát, mắt nhìn về phía chân trời, nơi mặt trời đang dần chìm xuống, cảnh sắc đẹp như trong chuyện thần tiên. Tiếng sóng biển rì rào như một bản nhạc du dương, hòa với những lời thì thầm ngọt ngào bên tai. Một khoảnh khắc tuyệt vời để con người có thể cảm nhận được sự bình yên và tình yêu ngọt ngào trong không gian bàng bạc bao la này.

    Chúng tôi ngỡ ngàng trước bức tranh thiên nhiên có một không hai này. Khi nhiệt độ lắng dịu xuống, những cơn gió biển nhè nhẹ mơn man trên da thịt, trên cổ, trên mặt của mọi người. Hoàng hôn trên biển tuyệt đẹp với bầu trời màu cam, hồng, tím phản chiếu lên mặt biển một quang cảnh bình yên đầy màu sắc, và thơ mộng. Ai nấy tranh thủ thật nhanh để có kịp những bức hình lung linh sắc màu tuyệt vời. Tôi đã từng ngắm mặt trời lặn trên bờ biển, ở giữa sa mạc mênh mông toàn xương rồng, tôi đã thỏa mãn; nhưng lúc này, nhìn mặt trời dần xuống trên biển, xung quanh mình chỉ nước với nước, không phân biệt được đâu là trời đâu là nước. Ánh sáng nhạt dần với những đám mây pha những gam sắc màu, tạo nên một ráng trời huyền ảo, nhẹ nhàng như thực như mơ không nơi nào có được.

    Sân sau túp lều lý tưởng của chúng tôi ở cũng là … biển nước mênh mông. Chúng tôi mang kính lặn để bơi, coi cá đủ màu sắc dưới biển, thật đẹp. Có thể xuống nước bất cứ lúc nào ngay nhà mình mà không cần phải đi đâu xa. Cứ bơi lội ngắm cá chán thì đổi qua Kayaking. Mang áo phao bơi thuyền cưỡi sóng ra khơi. Nói ra khơi cho oai, thật ra chúng tôi không đi quá xa để nếu có bị sóng cuốn đi, nhân viên có thể đưa ca nô ra kéo về. Muốn đi câu cá nửa đêm thì phải trả tiền, có tàu với thủy thủ đoàn đưa bạn đi ra xa, hưởng cái thú câu cá đêm.

    Có một môn thuộc loại cảm giác mạnh, phải có trái tim bằng thép mới dám đi: bơi lội cùng cá Mập. Môn này cũng phải trả tiền. Chúng tôi ai nấy còn ham sống, chưa muốn xuống làm bạn với vua Thủy Tề nên không ai dám đi. Những buổi chiều đi bộ trên cầu ván, chúng tôi thỉnh thoảng thấy vài con cá Mập bơi ngay dưới chân cầu và ngay sau sân nhà. Nhân viên quả quyết chưa có ai bị xơi tái hay làm món Sushi cho cá Mập bao giờ, xin quý khách đừng lo. Có lẽ vì coi phim “Jaw” của Hollywood nhiều quá nên ai nấy vẫn cứ lo, vẫn còn muốn bơi lội vẫy vùng với đầy đủ chân tay. 

    Một hôm, tôi mải đeo kính lặn, bơi ngắm cá, nên không để ý nhìn hai bên. Tới hồi quay qua bên trái, giật mình thấy một chú cá Mâp nhỏ bơi cách mình chừng hơn 10 feet, tôi hơi lạnh cẳng một chút vì nghĩ thế nào cũng có cá mẹ lởn vởn đâu đây. Bụng bảo dạ chắc không sao vì ở đây chưa bao giờ xảy ra “sự cố”, nên vẫn yên tâm vẫy vùng thêm một hồi mà chẳng thấy tăm hơi cô em Mập của mình ở đâu. Bơi một hồi rồi cũng quen và không sợ nữa. 

    Vấn đề ăn uống ở đây khá đa dạng với các loại món ăn đa quốc gia và vài món địa phương của Maldives. Vì khu du lịch này thuộc loại “inclusive”, giống như nhà hàng buffet; đầu bếp làm nhiều các món ăn khác nhau để du khách có thể nếm qua cho biết, còn không họ có thể thưởng thức các món ăn của xứ sở mình. Họ cũng có vài nhà hàng đặc biệt, bạn có thể trả tiền thêm, nhưng rất mắc, để hưởng thụ những món đặc sản mà mình thích, uống các loại rượu mạnh mà mình mê.

    Trong tất cả các du khách từ các nước trên thế giới đến đây, họ đặc biệt chú ý săn sóc cho nhóm Việt Nam chúng tôi vì tiền típ hậu hĩ mà chúng tôi tặng sau mỗi bữa ăn. Các du khách khác không cho tip vì họ nghĩ buffet không đáng nhận tiền thưởng, nhưng chúng tôi quan niệm, đã đi chơi, hưởng thụ các tiện nghi cuộc sống, mình cũng nên rộng rãi một chút. Người phục vụ nào cũng vui vẻ hết mình phục vụ khi thấy nhóm chúng tôi từ xa đang đi bộ đến. Họ dành hẳn một bàn riêng đặc biệt để tiếp chúng tôi. Chỉ cần một ánh mắt nhìn, họ cũng đoán được chúng tôi cần gì. Người cho, vui, và người nhận càng vui hơn. 

    Sống 5 ngày trên một không gian thoáng đãng bao la, hít thở căng buồng phổi khí trời trong lành của đại dương, hưởng thụ những tiện nghi bậc nhất, chơi những môn thể thao dưới nước hợp sức mình; chiều về ngắm hoàng hôn đầy màu sắc rực rỡ trên biển, ăn uống no say, quên đi bao muộn phiền vây bủa cuộc sống. Hãy sống đi bạn, hãy tận hưởng hương vị cuộc đời ban cho mình. 


-- Nguyễn Văn Tới
(Hè 2024)


CHÚ THÍCH: 

  1. Trích thơ Đỗ Trung Quân. Chút Tình Đầu: “Ai cũng cũng hiểu - chỉ một người không hiểu
    Nên có một gã khờ ngọng nghịu đứng làm thơ”.

blank

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.