Hôm nay,  

Vân Đại Bàng

16/08/202400:00:00(Xem: 2886)
 
Ở trại tỵ nạn sao mà dễ buồn, mưa cũng buồn, nắng cũng không vui. Nhìn ra ngoài bầu trời chói chang, tôi tính bỏ văn phòng đi về nghỉ trưa thì bà Pimpa, người Thái, là nhân viên Cao Uỷ Xã Hội đến hỏi:

- Cô rảnh không, đi vào nhà tù với tôi. Tôi cần phỏng vấn vài người và làm lại danh sách tù nhân để báo cáo.

Như người buồn ngủ gặp được chiếu manh, tôi vui vẻ nhận lời.

Cũng như các trại tỵ nạn khác, ở Thailand cũng có một khu “nhà tù” dành cho những người tỵ nạn không chấp hành quy định của Bộ Nội Vụ Thái hay của Cao Ủy tỵ nạn. Thời hạn ở tù tùy theo mức độ phạm quy, có khi từ một vài ngày cho tới một hai tuần. “Tù nhân” cũng đủ loại, nhẹ thì có những người mua lén đồ ngoài hàng rào, thức quá giờ giới nghiêm, quên làm vệ sinh khu nhà được phân công, nặng hơn là thành phần đánh lộn, gây mất trật tự trong trại, trộm cắp vặt, trốn ra ngoài trại đi chơi.

Đi bộ qua khu đồi bãi đá, đến bệnh viện, là tới khu nhà tù được xây dựng khá kiên cố và cách biệt với những khu nhà ở khác trong trại. Sau khi trình giấy tờ nơi cửa, bà Pimpa và tôi bước vào nhà tù đã thấy hơn mười mấy người, đa số là thanh niên đàn ông đang ngồi rải rác trong tư thế chờ đợi, hình như họ biết trước có cuộc viếng thăm này. Bà Pimpa rủ tôi đi cho vui, chớ ở trong khu tù, có nhân viên người Việt tỵ nạn rất sành sỏi tiếng Thái, anh ta làm thông dịch cho bà ấy, còn tôi đi lòng vòng hỏi thăm, làm quen, tám chuyện với “tù nhân”.

Trại tuy nhỏ, nhưng có hơn chục ngàn người nên đâu phải ai cũng biết nhau. Tôi nhìn vào danh sách, để ý một cái tên khá đẹp, Lê Nguyễn Anh Vân, giới tính “nam”, rồi nhìn lên người đàn ông ngay góc phòng. Anh có dáng rất cao, gầy, nước da đen sạm, khuôn mặt góc cạnh với đôi mắt nâu đẹp nhưng khá lạnh lùng, mái tóc hơi dài màu nâu, và đôi cánh tay in hình xăm đậm, không khó nhận ra đó là “Vân Đại Bàng” mà tôi có nghe qua tiếng tăm. Vân Đại Bàng cũng kịp bắt gặp ánh nhìn của tôi, khi tôi mỉm cười bước đến gần hơn, không phải vì anh là “đại bàng” mà chỉ vì cách đây hai tuần, trong đêm văn nghệ mừng sinh nhật Đức Vua Thái, anh lên sân khấu hát một bài ca quen thuộc của nhạc sỹ Hoàng Thi Thơ, giọng hát đầm ấm của anh đã gây bất ngờ cho nhiều người, trong đó có tôi và mấy cô bạn ở chung nhà.

- Chào cô Loan.
- Ủa? Sao anh biết tên em?
- Cô làm trên văn phòng Cao Ủy, ai mà không biết.
- Còn anh là...?

Anh nhếch mép cười:

- Vân Đại Bàng.

Tôi ngồi xuống kế bên anh, làm quen:

- Hôm bữa anh ca bài “Đường Xưa Lối Cũ” hay quá chừng, ai cũng khen và mong bài hát thật dài.

Anh lắc đầu:

- Tại bài hát hay, mang đúng tâm trạng xa nhà của dân tỵ nạn, chứ tôi hát cũng thường thôi.

- Anh khiêm nhường không đúng chỗ rồi đó. Giọng hát hay là giọng hát được nhiều người công nhận, hôm đó hàng trăm người im lặng nghe từng câu hát của anh.

Bây giờ thì Vân Đại Bàng im lặng, tôi nói tiếp:

- Em và nhóm bạn mê bài đó lắm, nếu anh có thể chép lời bài hát đó cho tụi em, được không?

- Được chớ! Cô có giấy và viết chì thì cho tôi xin, khi nào viết xong tôi gửi ra cho cô.

Tôi lục giỏ đưa cho anh xấp giấy và mấy cây viết, chưa biết sẽ tiếp tục câu chuyện ra sao, bởi tôi và anh chẳng hề quen biết nhau, và tôi vào thăm nhà tù hôm nay chỉ là cho vui, chứ không có nhiệm vụ gì. Anh ta cất mấy tờ giấy vào góc tường, rồi lôi ra một bọc giấy, đưa ra mời:

- Cô ăn bánh bột mì chiên nhe, vợ tôi mới gửi vô hồi sáng.

Ở trại tỵ nạn, khi thấy nhiều cặp vợ chồng sống chung với nhau, khó ai biết được họ là vợ chồng thật từ Việt Nam có hôn thú hẳn hoi, hay chỉ là vợ chồng mới ghép vào ở chung ở trại, hoặc quen nhau trên đường vượt biên. Trong trường hợp của Vân Đại Bàng và chị Tuyết, ai cũng biết họ là “vợ chồng mới”, nghe đâu họ gặp nhau bên Cambodia, đúng nghĩa “trai tứ chiếng gặp gái giang hồ”, rồi cùng đi trên con thuyền qua xứ Thái này. Ở trại, chị mở quán nước nhỏ bán café, anh thì như các thanh niên rảnh rang khác, chẳng làm gì, thường xuyên tụ tập tại quán nhà uống nước, thỉnh thoảng nhậu nhẹt, bàn chuyện thời sự tỵ nạn, điều khiển đám đàn em chạy mua lén đồ ngoài hàng rào rồi bán lại cho dân tỵ nạn kiếm lời.

Tình hình đi định cư rất khó khăn cho những người tỵ nạn cuối mùa như chúng tôi, ai cũng phải qua cuộc thanh lọc bởi Bộ Nội Vụ Thái, nếu vượt qua được cuộc phỏng vấn này, thì mới có cơ hội qua trại khác chờ các nước phương tây cho đi định cư. Nhiều người bị đánh rớt từ vòng này, được Cao Ủy khuyến khích hồi hương.

Vân Đại Bàng và chị Tuyết cũng ở trong nhóm người đăng ký hồi hương, được sống trong khu riêng chờ đến ngày lên xe bus về trại Hồi Hương, làm thủ tục ra Bangkok bay về Việt Nam. Một số người trong nhóm này tự xem mình là “cùi không sợ lở”, không còn gì để mất, nên trong thời gian chờ ngày về, họ ăn nhậu xả láng và sẵn sàng quậy phá. Hàng tuần, hễ sáng mai có chuyến xe hồi hương, là y như đêm trước họ ăn uống, ca hát, quậy phá rồi đánh nhau với người ở khu khác. Mới nhất là một đêm hỗn chiến tưng bừng, chúng tôi ở khu bên này chỉ dám đứng xa bên hàng rào kẽm gai nghe ngóng, đến khi nghe tiếng súng nổ từ văn phòng trại, mọi người hoảng hốt chạy về khu nhà mình, những vẫn nghe những âm thanh đánh nhau từ gậy gộc, dao búa và cả vài tiếng súng nổ thị uy của lính Thái. Cho đến gần nửa khuya, tình hình mới im ắng trở lại, và qua lời bàn tán lao xao của mấy “bà tám” trong trại, chúng tôi được biết có mấy người bị thương phải đưa vào bệnh viện bên ngoài, vài người cầm đầu cuộc hỗn chiến bị vào tù, trong đó có Vân Đại Bàng.
Tôi vừa ăn bánh chiên, vừa tiếp tục câu chuyện làm quen:

- Tên của anh đẹp lắm đó! Ý em nói “Lê Nguyễn Anh Vân” chớ không phải “Vân Đại Bàng” nghen.

Anh ta bật cười:

- Tên ba tôi là Lê Anh Quân, hồi trẻ ổng có mối tình đầu với người tên Vân, nên khi sinh ra tôi, ba muốn đặt tên tôi là Lê Anh Vân, nhưng má tôi ghen, đòi để thêm họ Nguyễn của má tôi vào, thành ra tên tôi dài lê thê.

Câu chuyện tới đây phải đứt ngang vì tới giờ bà Pimpa kêu tôi về lại văn phòng làm việc.

Hai ngày sau, cũng trong giờ nghỉ trưa ở phòng Cao Ủy, có người mang đến cho tôi tờ giấy ghi bài “Đường Xưa Lối Cũ”. Tôi ngắm nhìn với niềm thích thú bất ngờ, vì tựa đề bài hát được viết theo lối thư pháp mới, bay bướm lãng mạn, nét chữ bút chì trong toàn bài nhạc rất đẹp, đều đặn, có chút lả lơi trên từng con chữ, mà đặc biệt nhất là bài hát được viết trên một bức tranh, cũng vẽ bằng bút chì, trong đó có đủ ánh trăng treo trên đồi, có lũy tre xa mờ, và bóng mái tranh nghèo bên đồng lúa chín. Ở góc phải cuối bức tranh ký tên “Anh Vân” rất điệu nghệ, chứng tỏ người vẽ phải có một tâm hồn nghệ sỹ mới trau chuốt tác phẩm của mình đến như vậy. Tôi say sưa mải mê với bức tranh lời nhạc, quên mất tác gỉa là một “đại bàng trại tỵ nạn”. Tôi vui sướng nghĩ thầm, Vân Đại Bàng có một trái tim nghệ sỹ, mà tôi luôn tin rằng, những người có tâm hồn nghệ sỹ thường là người tốt.

Tôi chạy vội đến nhà tù để nói lời cám ơn thì được biết anh đã được về nhà. Từ ngày đó, chúng tôi trở nên quen biết, thỉnh thoảng tôi và cô bạn ghé nhà anh chơi, có khi nghe anh đàn hát (anh thường được yêu cầu ca bài “tủ” Đường Xưa Lối Cũ), hoặc chúng tôi ngồi trao đổi chuyện thời sự của trại, chuyện văn nghệ văn gừng đó đây.

Có lần anh nói với chúng tôi:

- Nếu trong trại có ai gây gỗ, ăn hiếp tụi em thì cho anh hay, anh sẽ cho người đến “nói chuyện”.

Chúng tôi cười:

- Tụi em nhát như thỏ đế, cả đời chẳng dám gây lộn với ai, chắc không phiền anh ra tay.

Lần khác, thấy chúng tôi đi lãnh nước, anh nói:

- Kể từ bữa nay, anh sẽ cho người gánh nước đầy lu nhà em mỗi ngày, khỏi cần xách nước nữa.

Chúng tôi giẫy nẩy:

- Không sao đâu anh, tụi em xách nước là tập thể dục luôn mà.

Anh trợn mắt:

- Thôi đi cô nương. Tôi đã thấy bốn cô xách hai thùng nước, chỉ vài lô nhà mà phải dừng lại nghỉ hai ba lần.

Lúc này tôi đành phải thú nhận:

- Dạ, chẳng dấu gì anh, tụi em thuộc loại “tiểu thơ con nhà... nghèo”. Gia đình không giàu có gì nhưng được ba má cưng chiều, chưa làm việc nặng bao giờ.

Bữa đó, chúng tôi tập làm bánh tai yến chiên, là món ăn vặt phổ biến ở trại lúc bấy giờ, mang đến nhà anh để “góp vui”. Buổi tối gió mưa bão bùng ở trại tỵ nạn dễ làm lòng người nao nao, nhớ nhà da diết, nên người ta cũng muốn có người để trải lòng tâm sự.

- Gia đình tôi ở một xóm quê xinh đẹp miền An Giang, ba tôi là thầy giáo làng, nhưng ông mất sớm, tôi phải nghỉ học ngang phụ mẹ kiếm tiền lo cho đứa em gái. Cuộc sống nghèo khổ, thiếu sự dạy dỗ của ba khiến tôi trở nên lầm lì, đôi khi ngang bướng. Tới năm mười chín tuổi, tôi bị bắt đi nghĩa vụ quân sự, qua bên Cambodia đánh nhau với quân Polpot được hai năm thì tôi đào ngũ vì không muốn lãng phí tuổi xuân cho cuộc chiến đầy bất công và nhiều bạo lực, tôi sợ hàng ngày phải chứng kiến cảnh chết chóc dù là của phía Việt Nam hay Cambodia, tôi bị ám ảnh bởi những trò tàn ác dã man của quân Polpot, tôi căm ghét quy luật của chiến tranh... Nhưng tôi đâu có đường trở về nhà, tôi phải trốn qua khu Bắc Loong, đảo ven biển thuộc tỉnh Koh Kong, Cambodia rất gần với đất Thái. Ở đó một thời gian dài, vật lộn với đủ nghề kiếm sống, biết thêm luật giang hồ để sống còn nơi vùng đất hỗn tạp đó, vì đó là nơi dừng chân của các tàu viễn dương quanh vùng Châu Á, các thủy thủ lên nghỉ ngơi và tìm thú vui chơi nên gái làng chơi tìm về ngày càng đông đúc. Tôi sinh sống bằng nghề buôn lậu, mua hàng trên các tàu viễn dương, rồi mang vào trong đất liền Cambodia bán lại kiếm lời. Tôi thực sự đã bị dòng đời cuốn đi mà không biết khi nào sẽ được dừng lại, trở về thăm quê cũ, có mẹ già và em gái đang đêm ngày mong ngóng tin tôi, đó là lý do tôi hát bài “Đường Xưa Lối Cũ” với sự thổn thức từ trong đáy tim.

Tôi tò mò:

- Anh hát hay mà còn vẽ đẹp lắm đó, anh là họa sỹ hả?

- Không, tôi chỉ có khiếu hội họa từ hồi còn học cấp hai, rồi tự vẽ khi thấy thích chứ không qua trường lớp nào hết.

Tôi đổi đề tài:

- Vậy tại sao anh có tên “Vân Đại Bàng”?

Anh đưa cho chúng tôi xem hình xăm hai con đại bàng hai bên cánh tay:

- Ồ, đêm đó chúng tôi hành quân và đóng tại một làng hẻo lánh bên Siêm Riệp, ông chủ ngôi nhà sàn nơi chúng tôi trú ngụ cả tuần lễ là một nghệ nhân xăm nổi tiếng trong vùng. Không hiểu do nhậu say vì rượu hay phút cao hứng của thằng đàn ông lang bạt chinh chiến, tôi đã đồng ý cho ổng xăm hai con đại bàng trên tay. Mà cũng nhờ nó mà khi phiêu bạt giang hồ nơi Bắc Loong, trong những trận đánh nhau với các nhóm buôn bán khác, tôi được nhìn với chút e dè sợ sệt nể nang, từ đó tôi có tên “Vân Đại Bàng” cho tới bây giờ!

Anh rít một hơi thuốc lá rồi nhìn ra ngoài mông lung:

-Tôi như người leo lưng cọp không có đường thối lui. Nhiều lúc buồn tủi và cay đắng cho thân phận không nhà, không quê hương, nhưng biết làm gì hơn? Cho đến lúc tôi gặp Tuyết, vợ tôi đây. Cô ấy trong nhóm gái ăn sương chuyên phục vụ khách thủy thủ viễn dương. Qua nhiều lần gặp gỡ, trò chuyện và tâm sự nỗi đau xót xa quê hương, chúng tôi quyết định rời bỏ Bắc Loong, đi thuyền qua Thailand, hy vọng cuộc đời bước sang chương mới, tươi sáng hơn.

Tôi nhìn anh, phân vân:

- Ở trại tỵ nạn rồi, anh làm “đại bàng” làm chi nữa?

Anh trầm ngâm:

- Tôi cũng có muốn đâu! Qua đây gặp lại mấy người quen cũ làm ăn bên Bắc Loong, khi họ gặp sự ức hiếp từ ban trật tự, ban cộng đồng của trại, họ nhờ tôi can thiệp, rồi bao nhiêu chuyện bất công, đụng chạm khác xảy ra hàng ngày, khiến tôi lại nổi máu “Lục Vân Tiên”, thấy chuyện bất bình giữa đường chẳng tha.

Chị Tuyết xen vào, góp chuyện:

- Nhưng em thấy đó, tỵ nạn cuối mùa không còn tương lai nào chờ đón cả. Anh chị đều bị rớt thanh lọc, nên mới đăng ký hồi hương.

Tôi an ủi:

- Thôi thì cũng là dịp anh chị về với gia đình.

Chị Tuyết giọng buồn thiu:

- Chỉ có một mình chị về thôi em à! Anh Vân dự tính tìm đường ra ngoài Thái sinh sống.

Anh Vân nhìn tôi, giải thích:

- Có thể tôi về sẽ bị bắt vì tội đào ngũ xưa kia, vả lại, tôi đã từng thề không bao giờ trở về với hai bàn tay trắng.

- Vậy sao anh không đưa chị Tuyết đi theo?

- Đi trốn chớ có phải đi chơi đâu! Mới đây, ba má Tuyết gửi thư sang kêu Tuyết về nhà, cả gia đình đã tha thứ và đón chờ Tuyết trở về, làm lại cuộc đời.
                                   
…………………………………

Sau đó vài tuần tôi may mắn đậu thanh lọc, được chuyển qua trại khác chờ ngày lên đường định cư. Trong thời gian này, tôi nghe nói chị Tuyết cũng đã rời trại trở về Việt Nam, còn anh Vân thì trong một lần đụng độ với nhóm người Khmer trong trại, anh lại bị bắt vào tù, nhưng lần này là nhà tù ngoài Thái chứ không phải nhà tù trong trại tỵ nạn. Thế rồi tôi lên đường đi Canada, bỏ lại Thailand sau lưng với bao nhiêu niềm vui nỗi buồn không nhớ hết.

Chẳng hiểu sao hôm nay tôi lại nhớ đến cái tên Vân Đại Bàng dù bao nhiêu năm đã trôi qua? Có phải vì bài Đường Xưa Lối Cũ vừa tình cờ nghe được, hay cái tin từ người quen cũ cho biết trong chuyến về Việt Nam thăm nhà, họ có ghé qua Thailand chơi và gặp Anh Vân ngồi vẽ tranh chân dung trên đường phố phục vụ khách du lịch ở thành phố biển Pattaya? Còn một người khác thì khẳng định với tôi rằng đã thấy Anh Vân hành nghề chạy xe tuk-tuk ở thủ đô Bangkok. Chẳng biết chuyện thực hư ra sao, nhưng cả hai người đều nói Anh Vân có vợ người bản xứ, có hai đứa con, và chí thú làm ăn sinh sống như bao người lao động lương thiện khác trên đất Thái.

Vậy thì tôi mừng cho anh đó, Anh Vân ơi! Mừng vì cuối cùng anh đã thực sự trở về “đường xưa lối cũ” của con người anh, của cuộc đời anh. Nhưng tôi vẫn tự hỏi, anh đã có dịp nào trở về quê, thăm lại “đường xưa lối cũ” mà anh từng khát khao ấp ủ, nơi vẫn có “bóng tre che thôn nghèo”, có “ánh trăng soi đường đi”, mặc dù có thể giờ đây mẹ anh đã ra đi bên kia cuộc đời và người em gái cũng đã theo chồng sang ngang?

Edmonton, Tháng8/ 2024
Kim Loan
 

Ý kiến bạn đọc
25/08/202422:23:34
Khách
Lau qua toi khong thay chi Kim Loan viet bai. Tinh co hom nay thay chi viet bai moi. Bai viet cua luon luon la hay, xuc tich, va cung khong kem phan "buon - luon huong ve que huong". Cam on chi, va mong gia dinh chi duoc hanh phuc trong nhung thang ngay o Canada. Mong chong, va han hanh duoc doc them nhung bai viet cua chi Kim Loan. Xin cam on!
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bây giờ trời đã tối, nhiều người đi ngủ sớm. Bọn trẻ học bài dưới bóng ngọn đèn dầu ở ngoại ô, ngọn đèn đường gần bờ sông. Trước hàng rào kẽm gai, một người lính mang súng đi đi lại lại, một đôi tình nhân đi chơi về muộn. Ngọn đèn hỏa châu sáng bừng góc trời một lát rồi tắt. Người yêu quê hương đã đi ra khỏi mảnh đất của những hận thù dai dẳng mà vẫn muốn trở về. Người nông dân muốn cày lại thửa ruộng của mình. Người thợ sửa đồng hồ muốn ngồi lại cái ghế vải nhỏ thấp của mình sau tủ kiếng bày đồng hồ cũ và mới. Lò bánh mì chiếu sáng nhấp nhô bóng những đứa trẻ bán bánh mì đứng trước cửa sổ với bao tải lớn đựng bánh nóng mới ra lò. Con chim về ngủ muộn biến mất trong bụi cây chỗ anh đứng.
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.