Hôm nay,  

Bến Đỗ

09/09/202411:15:00(Xem: 2966)
mạt chược
Quân bài mạt chược

 

 

 

Đưa người ta không đưa qua sông

Sao có tiếng sóng ở trong lòng?

Bóng chiều không thắm không vàng vọt

Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong? (Tống Biệt hành – Thân Tâm)

 

Anh ngồi bất động trước hiên nhà, những chú chim sẻ truyền cành ríu rít hót, những cô bướm đủ màu lượn lờ bay quay tưởng chừng như muốn đậu lên cả người anh, anh vẫn yên lặng như pho tượng, không để ý đến những vật thể linh động bao quanh mình, kể cả dải nắng chan hòa ấm áp đang phủ lấy con người bệnh hoạn của anh.

 

Anh bồi hồi nhớ lại khoảng thời gian cách đây 50 năm, hồi anh còn trẻ khỏe, khi anh chị mới lấy nhau; anh di cư từ Bắc vào Nam năm 1954, chật vật học ra bằng bác sĩ, lập gia đình với chị khi ấy chị mới chỉ là một thiếu nữ thơ ngây của một gia đình trung lưu miền Nam. Cuộc sống của anh chị nhẹ nhàng thoải mái với đồng lương bác sĩ của anh, sau đó hai con trai ra đời, chưa được bao lâu thì miền Nam Việt Nam bị cưỡng chiếm.

 

 

anh chị dht
(Anh ĐNT và chị HM hồi mới cưới nhau)



Chẳng bao giờ anh có thể ngờ được cả gia đình phải bỏ nước ra đi, phải trốn chạy hung thần giặc đỏ, hy sinh thân mình chống trọi với gió bão ác nghiệt của biển cả để tìm đến bến bờ tự do.

 

Gia đình anh chị được chính phủ Canada cấp cho một căn nhà nhỏ tại một thị trấn khá xa, nằm trong tiểu bang Quebec, Berthierville, vào những năm 1976-1977, lúc ấy hai con trai mới lên 5 và 7;  cho dù có khó khăn cực nhọc cách mấy, anh vẫn mang ý nghĩ trong đầu phải phấn đấu, kiếm tiền nuôi gia đình; chị cũng không quản ngại thức khuya dậy sớm, làm những món ăn Việt Nam thật đặc biệt là chả giò, xôi, bún, bán cho người dân bản xứ trong vùng, phụ thêm chút thu nhập để nuôi các cháu nhỏ và tạo điều kiện để anh yên tâm đi học lấy lại bằng bác sĩ hành nghề trên đất khách; mặc dù cả ngày chị chạy lên chạy xuống, hết đón con đến đi chợ, rồi làm bếp, chị không hề thấy mệt, ngược lại thấy vui với sự bận rộn mỗi ngày, vui với sự hài lòng, nụ cười của khách hàng mỗi lần chị làm món ngon cho họ thưởng thức bữa cơm tối; số tiền thu được chị đã chắt chiu từng đồng nuôi dậy các con, vén khéo trong gia đình mà anh không cần phải lo lắng đến.

 

Berthierville nằm ở phía Bắc sông St-Laurent, rất ít dân cư chỉ một hai ngàn người, mọi người ai cũng biết nhau, yêu quý và giúp đỡ lẫn nhau, nhất là lúc ấy nguồn thu nhập chính của chị từ món chả giò nổi tiếng nên ai cũng biết đến chị và gia đình; con cái chị được dậy dỗ và lớn lên giữa những người dân bản xứ hiền lành, tốt bụng và giàu lòng nhân ái.

 

Cái lạnh cắt da, cơn gió hú, những tảng băng tuyết rơi từ nóc nhà lăn ùn ùn xuống thành từng đống trước mặt anh khi anh mở cửa đi làm vào buổi sáng ở những tháng một, hai khi mùa đông Canada tới, thương các con dậy đi học sớm với hai ba lớp áo lạnh, ủng, găng tay, mũ nón len mà mặt vẫn đỏ au, da bị dộp phồng đỏ vì quá lạnh, anh chị đã bàn nhau dọn về Montreal cho bớt lạnh, vả lại lúc đó anh đã học xong bằng bác sĩ chỉ còn thực tập trong nhà thương mà thôi.

 

Ngày anh chị rời bỏ thành phố nhỏ Berthierville làm khuấy động cả một góc thị trấn, ai cũng thương mến, đến giã từ, mọi người bịn rịn tặng quà và chúc tụng những lời lẽ đẹp nhất như một hành trang tinh thần giúp anh chị tiến mạnh hơn và tin tưởng ở tương lai trên quê hương thứ hai này.

 

***

 

Tôi có hẹn ở phòng mạch của anh khi anh ở độ tuổi 50, còn tôi mới bước vào đại học năm thứ nhất. Tôi đến khám để xin thuốc antibiotique (kháng sinh) vì đau cổ, ho hai tuần vẫn chưa khỏi.

 

Gặp người đồng hương vào thời đó, anh vui lắm, hỏi tôi:

 

- Cô qua đây lâu chưa? Bên này lạnh quá nên ai cũng ho cũng cảm, đi ra ngoài phải lấy foulard (khăn quàng cổ) quấn mấy vòng như thế này rồi mới ra đường, chứ không thì sẽ bị cảm suốt! Thôi lấy 10 viên này về uống thử nếu hết thì thôi, còn ho thì gặp lại tôi nhé.

 

Anh muốn trêu tôi, lấy chiếc khăn quàng quấn chung quanh cổ, xiết mạnh, chỉ chừa hai con mắt trợn to và chiếc lưỡi thè dài ra, làm tôi đang đau cổ nói giọng khàn đặc cũng phải bật cười thành tiếng.

 

Anh nói chuyện rất có duyên, lúc nào cũng pha trò tếu lâm, làm người bệnh quên cả bệnh tình của mình; từ phòng mạch bước ra, ai cũng mang nụ cười trên môi như đi thăm người thân chứ không phải vào khám bệnh. Tiếng cười của anh vang dội ra cả ngoài phòng đợi. Khách khám với anh ngày càng đông. Họ rất mến ông bác sĩ gia đình này, vừa hài hước lại vừa hiểu tâm trạng bệnh nhân.

 

Sự thành đạt về gia đình, con cái lập nghiệp tốt, làm anh chị thêm hưng phấn, không còn lo sinh kế; cuộc đời đẹp hơn khi xung quanh có những người bạn thân, mối giao hảo cùng đẳng cấp được rộng mở, anh chị quen biết nhiều người hơn trong đó có đủ độ tuổi gặp nhau vui chơi ăn uống, ca hát nhảy nhót cuối tuần.

 

Những lần ra mắt sách trong cộng đồng người Việt, thỉnh thoảng tôi gặp anh chị, chị cũng là một trong những cây bút chuyên viết truyện tình cho nguyệt san của Montreal; gặp chị như cá gặp nước, tôi và chị hàn huyên không bao giờ dứt về văn chương, gia đình, cuộc sống. Chị trẻ hơn mẹ tôi không nhiều nhưng trong giới văn nghệ thường xưng hô « anh chị » cho trẻ trung nên tôi cũng không ngoài luật đó!

 

Tuy tôi và anh chị không cùng độ tuổi nhưng chúng tôi phải nói là bén duyên nhau, chuyện gì chúng tôi chung tay làm đều thành công như những lần làm văn nghệ ủy lạo các bác lớn tuổi ở nhà già, ra mắt sách cho nhóm, văn nghệ bỏ túi đến nhà những người bạn thân, sinh nhật bạn bè… Những tiếng cười nói, yêu thương đã làm chúng tôi thật sự gần gũi và quên đi tuổi tác của mỗi người.

 

***

Trong ba năm covid, mọi người ở trong nhà, chính phủ cấm không được hội họp, anh đứng ra thành lập một nhóm mạt chược mà anh là người thầy dậy.

 

Từ ở Việt Nam, anh đã chơi mạt chược rất giỏi, nhưng vì mưu kế sinh nhai khi mới đến một đất nước mới lạ lẫm nên anh chưa “trổ tài”, thời kỳ covid quá nhàn nhã, đây chính là cơ hội, anh lập ra từng nhóm bốn người dậy chúng tôi đánh mạt chược, vui, thật hào hứng và luyện trí nhớ cho khỏi quên khi lớn tuổi. Anh thâu một cuốn băng dvd dậy cách đánh mạt chược, và cũng viết một quyển sánh với những thế trận khó và cách tính điểm ra sao…

 

Chúng tôi đã quên đi những ngày tháng nhàn chám bị cô lập mà ai cũng lo học thêm cách đánh mới để ra quân đánh cho thắng, chúng tôi chơi một tuần hai lần ở nhà anh chị, còn khi về nhà thì tập luyện thêm những thế đánh hóc búa làm sao để có thể “ăn” được ông thầy. Lúc đó tên tuổi của anh vang rộng vì không ai có thể “hạ gục” anh trên những ván mạt chược.

 

Những ngày tháng bên nhau thân mật, ngắn ngủi trôi qua…

 

Bất thình lình tôi nghe chị nói anh bị suy thận và phải làm lọc thận mỗi hai lần trong tuần. Anh vẫn mang tâm trạng tích cực, vẫn tươi cười mỗi khi gặp bạn bè thân thiết, anh chấp nhận và hiểu rằng chuyến xe mà anh đang đi cùng mọi người sắp sửa đỗ bến! và người xuống bến sẽ là anh!

 

Anh vẫn dậy và chơi mạt chược rất cừ khôi, khi vào cuộc, anh quên tất cả bệnh hoạn, mà chỉ tập trung suy nghĩ sao cho ăn được đối phương, nên khi ngắm mọi người chơi mạt chược tôi có cảm tưởng như anh không hề mang bệnh trong người mà trái lại rất khỏe, giọng nói sang sảng, tiếng cười thật vui, nhưng có ai biết đâu là sau khi chúng tôi ra về thì anh thấm mệt! Anh vẫn chấp nhận chịu đựng đau đớn để được gặp bạn bè, để được tiếp tục đánh mạt chược, để quên đi căn bệnh đang đeo bám trong chốc lát, anh muốn thi gan với con bệnh đang đè lên con người của anh mỗi lúc một nặng hơn.

 

Một ngày họp mặt bạn bè, chị nói với chúng tôi có thể đó là lần cuối vì anh đã rất mệt rồi, anh không thở nổi nữa, mỗi lần anh đi lọc thận về, anh té nằm lăn ra đất vì đi không nổi, còn chị đã 80, làm sao có đủ sức để đỡ anh lên giường, nên chị để anh nằm yên dưới đất mà bấm 911 gọi xe cứu thương.

Cơ thể anh lúc nóng, lúc lạnh, rất kỳ quái! Có khi thì rất nóng phía sau lưng, chị phải lấy đá trườm phía sau, nhưng phía trước ngực lại phải đắp mền vì lạnh run!

 

Bên cạnh những đau đớn mệt nhọc, anh vẫn khôi hài; Anh vẫn nói những lời rất yêu thương, đầy biết ơn đến người vợ bên cạnh mình từ 50 năm nay, anh còn viết một bài báo nói về việc lọc thận làm cơ thể bị lạnh run, cách khắc phục như thế nào, gởi đi khắp nơi cho người cùng bệnh rút kinh nghiệm, vì là một bác sĩ 40 năm nên những thuốc chích vào người, anh đều tìm hiểu phản ứng phụ của nó ra sao.

 

Ơn nghĩa vợ chồng, anh đã viết một bài riêng cho chị trên tập san y sĩ ta main dans ma main (tay em trong lòng tay anh), trong đó anh nhắc đến Le temps qu’il nous reste (thời gian còn lại của chúng ta) của tác giả Fernand Gignac, một người bạn thân của anh chị đã dịch lại như sau:

 

Anh nhắm mắt lìa trần mãi mãi

Trên đôi môi xót lại nụ cười

Anh đi anh đã đi rồi

Còn em, em mất nửa đời tiếc thương

Trái tim em, vẫn thường đập nhẹ

Nhưng cho ai, nhưng để làm gì?

 

Thiên đường mở, bước quen đi

Tim em lỗi nhịp bởi vì dáng anh

Xiết đôi tay, quên nhanh tất cả

Thấy thời gian giờ đã ngừng trôi! (Lộc Bắc)

  

Một ngày cuối tháng tám, vợ chồng tôi chở anh chị đi chơi, ăn uống; đang ăn bỗng dưng anh nhìn xa xăm, nói vu vơ như không cần người nghe:

 

- Tôi cần một phương pháp trợ tử!

 

Tôi giật mình lo lắng đưa mắt nhìn chị, nước mắt đong đầy trong hốc mắt, chị nhẹ nhàng tâm sự:

 

- Ai cũng phải đến ngày đó thôi! Anh đã chịu đựng đau đớn mỗi lần lọc thận về, ăn uống không được ngon miệng nữa, ngủ nửa đêm thức giấc vì nóng hay lạnh quá, không được uống quá nhiều nước cho dù có khát cách mấy vì thận đã không làm việc nổi. Anh lại thương chị mỗi khi thấy chị cực giúp anh làm vệ sinh cá nhân. Con cái ở xa, chúng có cuộc sống riêng, đâu thể lúc nào cũng kề cận lo cho cha mẹ mãi được, khi cần chúng có thể đến giúp có hạn mà thôi… Rốt cuộc chỉ còn hai ông bà già! Cuộc đời có giới hạn, mình đã xây dựng, sống với tất cả nỗ lực, bổn phận trách nhiệm đã xong, thì bây giờ Chúa gọi về lúc nào anh chị cũng chấp nhận thôi!

 

Lần ấy, tôi thật ái ngại, thấy anh bước đi không còn khỏe như những lần gặp nhau trước nữa vì càng lớn tuổi mắt càng mờ, anh nói thật cảm động:

 

- Trước mắt anh như có một làn mây bao phủ, anh muốn chỉ một lần được nhìn chị cho rõ hơn để kiếp sau có thể tìm thấy mà lấy làm vợ…

 

Anh đã từng viết hai câu thơ trên tạp san Y Sĩ, cám ơn sự săn sóc tận tình của chị:

 

“Mai” ru anh ngủ dịu dàng

  Đến khi yên giấc nhẹ nhàng anh đi 

                  (Đặng Ngọc Thuận- số 232,TSYS phát hành 9/2024)

 

Một người bạn thân trong hội văn thơ đã tiếp:

 

Đừng buồn tử biệt sinh ly

Vòng tay rộng mở ướt mi em về (Lộc Bắc- 4 Sept 2024)

 

***


Bỗng một buổi tối sau giờ cơm, tôi nhận được một điện thư của chị nói rằng đã để anh vào "palliative" care (phòng chăm sóc cuối đời)! Tôi run hết cả người, nước mắt chảy dài xuống má không nói được một lời nào, bàng hoàng, xót xa nghĩ đến anh. tình cảm của tôi giành cho anh chị cũng như những người thân trong gia đình, làm tôi câm nghẹn không nói lên được một lời nào; biết rằng tình trạng của anh bệnh như thế đó, biết rằng anh sẽ từ giã chúng tôi một ngày không xa, nhưng thật sự tôi chưa hề sửa soạn tư tưởng sẽ mãi mãi không gặp anh và sẽ chỉ nhìn thấy chị trong tương lai một mình cô độc ở tuổi 80!

 

Tôi nhớ lại hình ảnh bố tôi gầy còm vì bệnh nan y phổi ở tuổi 86, khi bố cảm thấy sự sống không còn cần thiết nữa, ông không muốn bị mổ xẻ, cắt cứa đau đớn nên đã can đảm tự chọn vào "palliative care", ở đây ông được ăn uống tất cả những gì mình thích, không cần kiêng cữ nữa, mỗi ngày y tá sẽ chích cho ông một mũi thuốc morphine giảm đi những giác quan, tức là giảm đi sự cảm nhận, đau đớn, và đồng thời những giấc ngủ lâu và triền miên hơn, trong vòng một tuần.

Bây giờ tôi mới hiểu những người đàn ông trụ cột, gánh vác trách nhiệm của gia đình can đảm và dứt khoát như thế!

 

***

 

Vừa bước vào phòng bệnh, tôi thấy cả gia đình anh chị cùng hai con trai, con dâu, và các cháu quây quần bên giường bệnh, còn anh thì vẫn ngủ thật say, không nước biển truyền vào mạch máu hay ống oxygen cắm vào mũi để thở như những người bệnh bình thường khác.

 

Đúng thật là “ra đi trong bình an nhẹ nhàng”, nhưng sao trái tim tôi quặn thắt!

 

Trên tường những hình ảnh kỷ niệm của gia đình anh chị từ ngày lấy nhau cho đến tận bây giờ, hình các con cháu nô đùa bao quanh anh chị thật hạnh phúc. Tất cả chỉ là phù du khi con người đến một khúc quanh?

 

Trên chiếc bàn nhỏ, tôi thấy một quân bài mạt chược thật to bự mà một người học trò nào đó đến tặng ông thầy dậy mạt chược, vì thực tình anh chính là vị hoàng đế của mạt chược Montreal! không có ai có thể chơi qua nổi khi anh còn khỏe.

 

Những cánh hoa rực rỡ màu tươi thắm trên bàn trong góc cũng không đủ làm căn phòng vui tươi hơn, chúng tôi phải đè nén lòng khi nói chuyện với nhau, tôi sợ nếu sơ xuất điều gì sẽ làm nước mắt của tôi và chị tràn ngập cả phòng!

 

90 năm sống của anh qua những hình ảnh, gia đình con cháu vây quanh ở phút cuối, làm lòng tôi se thắt, đúng là cuộc sống này chỉ là một chặng dừng chân ngắn ngủi trong hành trình dài vô tận của sự tồn tại ở một cõi khác sau cái chết ở trần gian.

 

Tôi hỏi chị:

 

- Anh vào đây nằm từ bao giờ? Và đã quyết định chuyện này từ bao lâu rồi ạ?

 

- Thực sự mà nói anh đi lọc thận từ 4 năm rưỡi nay rồi, dạo gần đây sau khi từ nhà thương về anh rất mệt, ăn ngủ không yên, anh cứ bị đau nhức trong cơ thể ngày càng nhiều, rất khó chịu; tuổi đã cao, có kéo dài sự sống hơn nữa cũng chẳng để làm gì mà phiền thêm cho con cháu mỗi khi có chuyện, anh thực sự muốn ra đi êm ả, nên đã nói chuyện này với cơ quan y tế nơi mà họ cử những y tá đến chăm sóc cho anh hàng tuần tại nhà. Anh đã bàn với chị và các con, chính anh là người quyết định….

 

Câu chuyện chúng tôi bị cắt ngang khi anh hơi tỉnh lại, tôi đứng bên cạnh, vuốt tay anh: anh vẫn còn minh mẫn khi nói đúng tên tôi, anh lại còn thêm:

 

- Mắt mờ quá không thấy rõ…

 

Xiết chặt tay anh cho một lần cuối, tôi cố nuốt nước mắt vào trong, cổ họng nghẹn lại, những lời nói cuối cùng từ giã cho một kiếp người, khi anh còn nhận biết:

 

- Chúc anh… đi chơi xa thuận buồm xuôi gió, chúc anh đi thật bình an…

 

Chị thêm vào:

 

- Anh nhớ chờ em nhé!

 

Sỏi Ngọc

3 Sept 2024

Viết cho cuộc từ giã cõi tạm của anh ĐNT.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bây giờ trời đã tối, nhiều người đi ngủ sớm. Bọn trẻ học bài dưới bóng ngọn đèn dầu ở ngoại ô, ngọn đèn đường gần bờ sông. Trước hàng rào kẽm gai, một người lính mang súng đi đi lại lại, một đôi tình nhân đi chơi về muộn. Ngọn đèn hỏa châu sáng bừng góc trời một lát rồi tắt. Người yêu quê hương đã đi ra khỏi mảnh đất của những hận thù dai dẳng mà vẫn muốn trở về. Người nông dân muốn cày lại thửa ruộng của mình. Người thợ sửa đồng hồ muốn ngồi lại cái ghế vải nhỏ thấp của mình sau tủ kiếng bày đồng hồ cũ và mới. Lò bánh mì chiếu sáng nhấp nhô bóng những đứa trẻ bán bánh mì đứng trước cửa sổ với bao tải lớn đựng bánh nóng mới ra lò. Con chim về ngủ muộn biến mất trong bụi cây chỗ anh đứng.
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.