Hôm nay,  

Thiện và ác

18/10/202400:00:00(Xem: 3351)
 Thiện và ác 
 
Thiện là hành động, lời nói hay ý nghĩ tốt, thường mang lại an vui cho người, cho mình có khi là cho cả hai phía và cho tất cả mọi người xung quanh. Thí dụ việc là của cơ quan Médecin du Monde, luôn cứu giúp tài chánh cho những người nghèo khó, hoạn nạn ở khắp năm châu lục. Việc làm gần đây của thầy Minh Thiền ở Đức Hòa Dĩ An, thầy và các phật tử đi cứu trợ thiên tai bão lụt Yagi ở miền Bắc Việt Nam, ở Lào Cai, Yên Bái và các vùng, miền người thượng, miền cao do bão lũ gây ra. Họ đói, khổ, lạnh, mất người thân. Phái đoàn chùa Đức Hòa tới tận nơi, lội nước bì bõm ngang bụng mang tặng nạn nhân mì gói, áo quần, tiền và lời vấn an cho những người còn sống sót, đem lời cầu nguyện vãng sanh cho những người đã bị nước lũ cuốn đi, A Di Đà Phât. Người làm việc thiện luôn mang lại niềm vui hạnh phúc và dĩ nhiên được mọi người thương mến, thích gần gũi.
 
Trái với thiện, ác là những hành động, lời nói hay việc làm gây tai họa, khổ đau, buồn lòng người khác cho nên ác thường bị mọi người xa lánh, vì nó hay mang lại hậu quả khó lường. Thí dụ: vụ lường gạt bán vaccin covid giả hay kém chất lượng ở Việt Nam trong những năm đại dịch vừa qua, hay việc thế lực khủng bố Hamas tấn công sang Israël tháng 10-2023 bắn hỏa tiễn tàn sát người vô tội  và bắt nhiều con tin về giam giữ trong các địa đạo, cho họ chết lần chết mòn, rồi hậu quả là chiến tranh Trung Đông ngày càng ngày, càng dữ dội, đe dọa an nguy toàn thế giới. Việc ác làm mọi người ghê sợ và xa lánh.
 
Tuy được phân biệt rõ ràng như vậy, nhưng ranh giới giữa thiện và ác nhiều khi không rõ rệt và có lúc bị hiểu lầm.
 
Thí dụ: thầy nhiều khi quá nghiêm khắc, bị cho là ác, dù chủ ý của thầy là mong trò tiến bộ mau. Xưa có lúc nói là giáo đa tất oán, ngược lại, có những lời nói ngọt ngào xu nịnh cố ý dụ người đối diện làm hư việc, gọi là mật ngọt chết ruồi, do vậy, cái ranh giới thiện ác vẫn mập mờ. Muốn nhận xét đúng hơn, cần có trí tuệ để phân biệt tâm ý con người đó muốn gì khi hành động, khi phát ngôn hay suy tính một việc nào đó.
 
Cũng còn có những thiện ác trái chiều, như ở xã hội này, ở tôn giáo này, điều A là thiện. Sang một xứ sở khác, tôn giáo khác, việc A lại là không chấp nhận như việc sát sanh hay việc phá thai nhi, ở mỗi hoàn cảnh, ở mỗi đức tin, cũng có điểm dị biệt, thiện và ác có lúc rối tung, khó lần gỡ. Vậy có khi phải tùy hoàn cảnh, tùy lòng tin và tùy đạo hiếu sinh mà phán xét.
 
Ngày xưa, khi được quy y với bổn sư truyền giới, thầy Thích Thông Bửu, chúng tôi luôn dậy rằng người làm việc thiện nhiều như cát sông Hằng, mà người ta không bao giờ đếm xuể, người làm việc ác cũng nhiều như tinh tú trên bầu trời bao la mà con người mình không nhìn rõ, khi làm điều thiện mà sẵn sàng tha thứ cho những người khác, như đã từng nhiều lần tha thứ cho chính bản thân mình, thì cảnh giới thiên đàng, niết bàn, cực lạc chính là đang có nơi đây. Trong kinh pháp cú, có dậy rằng:
Lấy ân báo oán
Oán nghiệp chập chùng
Lấy ơn báo oán
Oán nghiệp tiêu tan.
 
Qua lời kinh điển, phật tử hiểu rõ là chủ đích của chánh pháp là muốn chuyển hóa nghiệp ác thành nghiệp thiện, thanh lọc tâm ý thanh tịnh chuyển đổi nước đục thành nước trong. Và không hề có ý tiêu diệt những kẻ ác.
 
Đạo là từ bi, luôn khuyên nhủ chúng sanh:
Tránh làm điều ác
Nên làm hạnh lành
Giữ tâm thanh tịnh
 
Muốn giữ được tâm ý thanh tịnh, mọi chúng sanh cần cố gắng vượt qua được sự phân biệt và cố chấp thiện, ác: không ca tụng việc thiện quá sức, không dè bỉu việc ác quá tệ, không phải là con người ngu si mà không biết thiện và ác đối nghịch. Nhưng vượt qua được sự cố chấp thiện ác, tức là mình thoát khỏi sự trói buộc của thiện nghiệp và ác nghiệp.
 
Người lương thiện là một bồ tát thuậnduyên nghịch duyên đó là những người hay nói hay làm những điều trái ý, đốp chát với ta, ngược với ta. Bảo là họ ác với ta? Có khi đúng mà có khi không, vì cái bản ngã đối chọi, căn cơ, tánh tình nghịch tặc, luôn thúc đẩy họ không đồng ý mọi điều với mọi người xung quanh. Kệ đi.
 
Thí dụ: Trong chùa, có tượng ngài hộ pháp và cũng còn có tượng ngài Tiêu Diên Đại Sĩ, như để đe dọa, nạt nộ và canh chừng.
 
Nói chung, vơi lòng từ bi và lòng kham nhẫn ba la mật, chư phật chư tổ luôn khuyên chúng sanh chấp nhận và biết ơn cả hai vị thuận duyên và nghịch duyên. Cả hai bên đều là những phương tiện giúp chúng sanh tiến bộ trên đường tu tập thường hằng, để luôn luôn đến gần chánh pháp và sống trong chánh pháp.
 
Trở lại chuyện kẻ ác và người thiện, đạo không tiêu diệt kẻ ác, chỉ dốc lòng hoán chuyển ác thành thiện, đó là chủ trương giáo dục bằng từ tâm, một tác giả phương tây, cũng có ý nghĩ gần như vậy:
 
« Ne cherchez pas à être sage à tout prix
La folie aussi est une sagesse
Et la sagesse, une folie
Fuyez les préceptes et les donneurs de leçons,
Faites ce que vous voulez
Et ce que vous pouvez
Rien n’est très important
Tout ce que nous aimons mourra
Et je mourrai moi aussi
La vie est belle.
                    Jean d’Ormesson
 
Trong cuộc đời hành đạo của đức phật, có một câu chuyện sinh động, được nhiều người biết đến, và một khi biết đến thì không thể nào quên, đó là câu chuyện đức phật cảm hóa tướng cướp Angulimala được ghi lại trong trung bộ kinh. Câu chuyện kể lại rằng, ở nước Kosala, do vua Pasénadi trị vì, có một tên cướp khét tiếng giết người tên là Anguli, là một tay thợ săn tàn bạo, giết người như giết thú, khiến cho dân làng rất lo sợ. Từ khi có tên cướp xuất hiện, khắp xóm làng, quốc độ người dân không còn sống yên ổn.
 
Một buổi sáng nọ, như thường lệ, đức phật đắp y, mang bình bát vào làng Savatthi khất thực. Sau khi khất thực và dùng bữa xong, ngài quay trở về và có ý đi trên con đường mà tên cướp hay qua lại. Người đi đường và những người chăn bò hết lòng ngăn cản ngài, nhưng đức phật vẫn giữ im lặng và ngài tiếp tục đi.
 
Thấy phật đang rong ruổi đi một mình, Anguli liền xuất hiện, y mừng rỡ và khởi tâm giết ngài. Y chỉ chờ có vậy và y lấy kiếm, cung, tên ra sẵn sàng và đi sau phật từ một khoảng không xa.
Thế rồi đức phât biết có Anguli theo sau, ngài dùng thần thông khiến cho Anguli dẫu cho có đi với tất cả tốc lực cũng không thể bắt kịp ngài, dù ngài vẫn đi bình thường.
 
Anguli chợt nghĩ, lạ thiệt, trước đây ta có thể đuổi kịp con voi, con ngựa, con nai và cả những chiếc xe đang chạy mau, mà sao bây giờ ta không đuổi kịp Sa Môn Cồ Đàm?
 
Anguli liền hô hoán lên:
Hãy dừng lại, Sa Môn!
Hãy dừng lại, Sa Môn!
 
Đức phật khoan thai đáp lời:
 
Này Anguli, ta đã ngừng rồi, và ngươi, ngươi hãy ngừng lại.
 
Tên cướp Anguli biết rõ Sa Môn Cồ Đàm không bao giờ nói dối điều gì. Vậy là sao? Hắn liền hỏi:
 
Sa Môn, ông đang đi mà nói ngừng rồi. Còn tôi ông biểu tôi ngừng đi là sao?
 
Đức Phật liền giải thích chậm và rõ ràng:
 
Với mọi chúng sanh, ta bỏ kiếm cung xuống.
 
Còn ngươi, ngươi không tự kiềm chế mà vẫn giết người, gây ra bao sự chết chóc đau đớn và hận thù, nên ta nói ta đã ngừng mà ngươi chưa ngừng… hãy ngừng lại! Ngừng lại!
 
Khi đức phật nói lời này, Anguli đứng lặng im, trầm tư suy nghĩ. Dường như lời nói nhẹ nhàng đánh động tâm thức tên cướp bạo tàn. Rồi Anguli từ tốn thưa:
 
Này thưa Samôn, tội lỗi của tôi thật tầy trời. Tôi có thể quay đầu bằng cách nào?
 
Thấy Anguli như đã chuyển tâm ý, ray rứt với việc làm của mình, đức phật liền mở ra một cơ hội cho người biết quay đầu sám hối. Ngài bảo quay đầu là thấy bờ, và sẽ nhận Anguli vào tăng đoàn để Anguli có thể làm mới lại cuộc đời, từ bỏ sự tàn ác, gột rửa tâm ý thanh sạch, từ đó đi dốc lòng làm các điều lành.
 
Nghe xong, Anguli liền quăng bỏ kiếm cung khí giới xuống vực sâu, quỳ gối đảnh lễ đức phật và xin xuất gia theo ngài.
 
Sau này, khi trở thành tu sĩ, Anguli đi khất thực, rất nhiều lần bị người quanh vùng đánh đập đau đớn nhưng ông hiểu rằng đó là những ác nghiệp phải trả. Đức phật trông thấy, ngài tự tay băng bó các vết đau cho Anguli. Ngài băng bó những vết thương thân xác và đồng thời băng bó luôn cả những vết thương trong lòng phạm nhân, chữa lành tâm linh cho kẻ phạm tội sát nhân đã biết quay đầu từ bỏ cái ác mà hướng thiện.
 
Giáo hóa được một tên sát nhân, từ bỏ ác nghiệp quay đầu vào bờ, ít ai tin, nhưng Sa Môn đã giáo hóa thành công Anguli. Điều làm cực kỳ khó, đến ngài phải dùng thần thông giáo hóa lúc đầu, sau, dùng oai lực tâm từ mà đánh động tâm thức phạm nhân.
 
Ít ai tin rằng một người cực ác có thể quay đầu 180° để thành người tốt. Sự thay đổi tận gốc của một kẻ cực ác thường là điều không tưởng, thế mà tên cướp ác độc Anguli đã làm được việc ấy, việc khó tin ấy.
 
Là nhờ vị thánh tăng rất từ bi cảm hóa, việc này khơi dậy lòng tự tin của tất cả mọi người.
 
Quay đầu là bờ, đáo bỉ ngạn, nếu chúng ta nỗ lực vượt bực, dùng nội lực làm lực đẩy để quay 180°, ta sẽ thấy bờ, hướng đến bờ và bơi vào bờ.
 
Nếu tự tin để vượt qua mặc cảm tội lỗi của mình.
 
Nếu tự tin để vượt qua sự nghi ngại của người ngoài ta.
 
Ta sẽ biết cách lội ngược dòng một cách ngoạn mục để về đích.
 
Không bao giờ là muộn đối với người biết quay đầu hướng thiện. Một tên cướp giết người còn biết quay đầu, huống chi người thường chúng ta, chúng ta đôi khi có lỗi lầm mà chưa tột cùng như Anguli! Chư phật khuyên chúng sanh nên thay đổi thái  độ với người khác qua câu chuyện Anguli. Các ngài khuyên phật tử có cái nhìn tích cực vào nỗ lực hoàn thiện là quyết tâm làm mới, làm lành lại của tất cả mọi người xung quanh và của cả chính ta.
 
Thái độ cố chấp khắc kỵ không đem lại lợi ích gì cho ai cả.
 
Một khi thay đổi nhận thức, hành vi nương đó mà thay đổi theo. Anguli làm được, thì mọi người khác đều cũng có thể.
 
Kinh Angulimala, trung bộ kinh 86, ghi lại rằng: sống trong hạnh phúc, tha thứ, chấp nhận là được giải thoát.
 
Thưa, đạo phật không chủ trương lấy thiện diệt ác. Đạo phật mong chuyển hóa ác thành thiện. Không ghét người ác vì không có người ác, chỉ có ý niệm ác là xấu.
 
Đạo chủ trương chuyển hóa ác nghiệp thành thiện nghiệp chuyển hóa ba nghiệp chưa thanh tịnh thành ba nghiệp thanh tịnh.
 
Đạo phật mong muốn đem lại niềm an lạc cho cá nhân, hạnh phúc cho gia đình và hòa bình cho xã hội.
 
Đạo phật, thưa đạo nói chung, mọi chúng sanh, mọi tín đồ, đều không muốn gây hận thù và không muốn có kẻ thù.
 
Chỉ có từ bi và trí tuệ để yêu thương và cảm thông.
 
Thưa, tất cả đều có sẵn trong cuộc đời này, và cùng với tấm lòng bác ái sát liền bên.
 
A Di Đà Phật
Paris mùa biến động
của chiến tranh ào ạt
Chúc Thanh
 

Ý kiến bạn đọc
28/10/202422:14:51
Khách
Tôi nghỉ câu " Lấy ÂN báo oán, Oán nghiệp chập chùng ,, nghe không đúng mà sẽ là " Lấy OÁN báo oán Oán nghiệp chập chùng .....xin có ý kiến như vậy....
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bây giờ trời đã tối, nhiều người đi ngủ sớm. Bọn trẻ học bài dưới bóng ngọn đèn dầu ở ngoại ô, ngọn đèn đường gần bờ sông. Trước hàng rào kẽm gai, một người lính mang súng đi đi lại lại, một đôi tình nhân đi chơi về muộn. Ngọn đèn hỏa châu sáng bừng góc trời một lát rồi tắt. Người yêu quê hương đã đi ra khỏi mảnh đất của những hận thù dai dẳng mà vẫn muốn trở về. Người nông dân muốn cày lại thửa ruộng của mình. Người thợ sửa đồng hồ muốn ngồi lại cái ghế vải nhỏ thấp của mình sau tủ kiếng bày đồng hồ cũ và mới. Lò bánh mì chiếu sáng nhấp nhô bóng những đứa trẻ bán bánh mì đứng trước cửa sổ với bao tải lớn đựng bánh nóng mới ra lò. Con chim về ngủ muộn biến mất trong bụi cây chỗ anh đứng.
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.