Hôm nay,  

Đó Là Tết…

31/01/202500:00:00(Xem: 3862)
Capture
Ảnh: Xuân vui. Photo: Tanya Trương
 
Không nhớ từ bao giờ đã không còn ngồi xuống bàn trà, tay bốc miếng mứt hạt sen bỏ vô miệng, vị ngọt tươm ra không quá gắt như ăn miếng mứt bí, vị ngọt nhẹ, thanh, kích thích vị giác bởi hương sen quyện ngọt điệu đà, tới khi nhai cái hạt sen đã ấm ấm trong miệng nên không còn cứng cũng không quá mềm như khoai lang luộc. Độ dẻo của hạt sen khi đã sên mứt rất mê hoặc và cũng đâu có gì vội để nuốt đi cho mau, cứ ngậm mà nghe hương vị đất trời tinh khiết của hương sen xông lên khoang mũi làm cho người thưởng thức lâng lâng cảm giác xuân đã về. Có thể nói món gì có hạt sen góp mặt cũng ngon như món vịt tiềm có nhân bên trong là thịt bằm, nấm mèo, táo tàu, gia vị nhiều thứ, nhưng những hạt sen luôn khêu gợi những đôi đũa gắp vì hấp dẫn và ngon lạ miệng. Nhưng đã nhiều năm không ăn mứt hạt sen sao vẫn nhớ khá rõ hương vị độc đáo của hạt sen trong món ngọt ăn chơi ngày tết, hay món mặn ăn tiệc đều ngon. Đến món nhậu trên đường phiêu bạt như cái lẩu dê cũng không thể thiếu củ sen, phải chăng mùi vị toàn thân của sen luôn kích thích người thưởng thức từ hoa lá sen đến hạt sen, củ sen, ngó sen cũng ngon thơm hơn bất cứ loài rau củ nào đem trộn gỏi nên người ta không nói gỏi tôm, mực trộn ngó sen mà nói gỏi ngó sen trộn tôm hay mực.  Xét theo ngôn ngữ Việt, nguyên liệu chính trong một món ăn được nói trước nên với món gỏi thì ngó sen là chính, các loại hải sản hay thịt trộn gỏi được nói sau, cho thấy ngó sen là chính, là linh hồn, trung tâm của món gỏi. Trong thực đơn ở nhà hàng Việt, người ta ghi ra cho thực khách chọn lựa là canh chua cá lăng, canh chua cá lóc chứ không ghi là cá lăng nấu canh chua hay cá lóc nấu canh chua để nhấn mạnh đặc trưng của món canh này là chua, nấu với cá lăng hay cá lóc đều là món phụ theo cho thực khách thích ăn loại cá nào.
  
Và đến khi thời gian không ăn hạt sen đã nhiều năm, khoảng cách địa lý đã xa mù, thời gian xa quê đã mốc meo mới chợt nhận ra thêm vị độc đáo của hạt sen là người Việt thì ai không thuộc bài ca dao, “Trong đầm gì đẹp bằng sen/ lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng/ nhụy vàng bông trắng lá xanh/ gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.” Nên tượng Phật thường toạ trên đài sen, hoa sen cúng Phật, ao sen trong sân chùa… đi quanh xóm làng dễ thấy hoa sen bởi sự gần gũi trong đời sống, có gía trị tâm linh nên tâm lý con người chưa ăn đã thấy ngon về sen. Bỏ thức gì vào miệng cũng cần thời gian để thẩm thấu độ ngon của thức ấy, nhưng chưa bỏ hạt sen vào miệng đã thấy ngon. Cái ngon tâm lý của người ăn làm cho vị trí của sen trong ẩm thực tăng lên phần nào.
  
Thôi thì lầm lũi một phương trời, ăn tết với hương xưa còn nhớ cho đỡ quạnh hiu cũng chẳng sao, coi như vừa hưởng hương vị đất trời qua miếng mứt hạt sen. Bây giờ uống ngụm trà móc câu không quá nóng cũng không nguội, trà mộc Thái nguyên như sự trở về sau khi ra đời những loại trà ướp đủ thứ hương hoa, người thưởng thức trở về nguyên bản là trà mộc, không pha tẩm gì hết mới thấm thía linh hồn với hương trà đặc sản vùng miền, phong thổ Thái nguyên là để trồng trà cho người biết thưởng thức, nuốt ngụm trà nghe ấm lòng cuối năm, đầu năm. Ba trăm sáu mươi lăm ngày qua với biết bao mưa nắng nhọc nhằn, buồn vui lẫn lộn. Tất cả một năm qua chỉ còn hương thơm trà mộc trên nóc họng, vị ngọt dư hậu của vị đắng trà lưu luyến nơi cổ họng là vị ngọt không giống bất cứ vị ngọt nào trên đời bởi vị ngọt dư hậu của trà ngon là vị ngọt không có chất đường. Đó là tết. Cái tết đã ở lại quê nhà từ khi bước chân đi.
  
Ở đây có trà móc câu Thái nguyên, có mứt hạt sen Đồng tháp, có thời gian để thưởng thức, có tiền mua hương vị quê nhà, có hết… chỉ không có tết ở trong lòng nên tết hải ngoại mâm cao cỗ đầy, danh trà hảo hạng đến đâu cũng không có tết vì thiếu cái không khí sáng mùng một thường se lạnh, ngoài đường vắng ngắt vắng tanh. Trời sương nhiều hay ít tùy năm nhưng năm nào sáng mùng một tết cũng sương giăng giăng ngoài ngõ, không khí vương vương mùi thuốc pháo đêm qua chưa tan hết vì hầu như đêm giao thừa nào cũng lặng gió, trời về sáng lại sương mù nên khói pháo chậm bay. Trong ngôi nhà ở quanh năm suốt tháng đi về không thấy gì lạ ngoài con lớn vợ già hơn năm trước thì hễ tết là nó lạ trong sáng mùng một tết với ly trà mộc, cắn cái hạt sen trong hộp mứt. Nhìn bàn thờ gia tiên thơm thoảng khói hương, nhành mai không khoe sắc đua hương với những bình hoa, chậu hoa du nhập đắt đỏ, nhưng năm nào hoa mai cũng vô chung kết hoa hậu hoa tết trong căn nhà nhỏ của người chân quê. Hoa đào len lỏi vào Sài gòn như cô gái bắc lạc loài, da trắng má hồng cũng hay hay đấy nhưng chỉ để nhìn cho vui mắt tết chứ tình anh chân quê đã thuộc về hoa mai với má xấp nhỏ. Đó là tết. Cái tết đã ở lại quê nhà từ khi bước chân đi.
 
  
Nhớ những cái tết khi mới đến Mỹ, được bạn bè còn trong nước gởi qua cho cuốn lịch treo tường, gói bông mai giả bằng nhựa thật vô giá vì mùi mực mới của lốc lịch, hình ảnh bông mai vàng; cả hai cùng kém phẩm chất từ in ấn trong nước thời đó đến kỹ nghệ làm đồ nhựa cũng chưa tinh xảo, nhưng trên hết vẫn là tình thân, tình bạn trong nước làm cho cảm giác lá xa cành chưa đến nỗi bị dòng đời cuốn trôi. Chút tâm tư cuối năm lắng đọng lòng biết ơn những người còn nhớ đến người trốn chạy. Thế là mặc thêm áo lạnh, lái xe đi Home Depot mua bao xi măng trộn sẵn. Trên đường về lại nhà thiếu gì cành nhánh trụi lá hai bên đường, cứ ghé lại là chặt được một nhánh cây khô giống cây mai, nhành mai, nhánh mai. Về nhà loay hoay với vợ con tới chiều cùng nhau ghim hoa lên cành, dính keo và nhìn ngắm sao cho giống thật. Cuối cùng cho vào cái xô nhựa, đổ xi măng. Hôm sau đi làm về lại tiếp tục dán giấy bóng kiếng hình bông hoa tết lên cái xô nhựa đã thành chậu là nhà có gốc mai ăn tết. Gốc mai giả vô tri vô giác nhưng chứa đựng biết bao ân tình của người thân, bạn bè còn trong nước gởi ra ngần ấy đã bay hết tháng lương của bạn còn đi dạy học. Hai vợ chồng “mất dạy” rồi mới hiểu thế nào là nỗi nhớ quê xa trong những ngày giáp tết, lòng hoài hương là gì, tình bạn không xa mặt cách lòng là gì trong cõi lẻ loi xứ người. Đó là tết. Những cái tết xa xứ đã thành cổ tích.
   
Tết trong lòng đã già, tim chai sạn thương tích đã thành thương tật, vết thương nào cũng có phần lỗi của người thọ thương để bình tâm sống đời còn lại. Sáng nay tuyết rơi đẹp tuyệt ngoài khung cửa, những bông tuyết đầu mùa ở xứ nóng đương nhiên muộn hơn trên miền bắc nhưng tuyết miền nam cũng giống tuyết miền bắc là êm đềm rơi xuống nhân gian những bông tuyết tinh khiết đến nao lòng nhìn lại, nhớ đến những bông tuyết  êm đềm như cuộc sống quen thân, những bông tuyết cuồng nộ trong những cơn bão tuyết cuộc đời, những bông tuyết vay mượn từ trong tiểu thuyết cho đời bớt khô khan, gấp quyển truyện lại chỉ còn ta với tuyết đang rơi ngoài khung cửa. Trong những trang sách về triết lý nhân sinh có trang nói, “thật ra về già người ta chẳng cần người bạn nào hết…” đọc có vẻ phũ phàng, cảm xúc bàng hoàng đến không lâu khi nhìn ra những bông tuyết đẹp đẽ nhẹ rơi xuống nhân gian này tạo thành lớp tuyết trên sân cỏ ngày một dày hơn. Ai mà đếm được đã bao nhiêu những bông tuyết đẹp đẽ bị vùi chôn đưới những bông tuyết đẹp đẽ tiếp tục rơi tới bông tuyết cuối cùng, để rồi tất cả đều tan chảy khi nắng lên. Cõi người cũng giẫm lên nhau mà sống để về chung nơi gió cát phù du. Có bông tuyết nào hiểu về sự hình thành của mình nhưng tất cả đều hiểu sự tan chảy vào hư vô vì cùng rơi xuống nhân gian. Người ta cũng không biết mình từ đâu đến, vùi giập lên chính đồng loại với bản năng sinh tồn, hỷ nộ ái ố nào cũng qua khi tất cả cùng về cát bụi bởi đã họp mặt trong nhân gian này. Chắc chắn có những giải thích về từ “gian” theo tôn giáo, theo khoa học, theo triết học nhưng tuyết rơi ngoài kia là bài học về không gian, thời gian, trần gian, nhân gian đều không có thực. Nhân quần trong cõi tạm này đều chờ giải thoát theo những quan niệm tôn giáo, tín giáo khác nhau. Đích đến của sinh mệnh mới quan trọng, mọi người chỉ sống ở trạm trung chuyển này một cuộc đời, thuận buồm xuôi gíó hay bơi trên dòng nước ngược đều chào đời không mảnh vải che thân, hồi đi đến cái cúc áo cũng lắt lại. Hiểu mình quan trọng hơn cả đời đã lãng phí thời gian đi tìm hiểu người khác. Hãy làm bạn với chính mình, hiểu người bạn này là giải thoát trong nhân gian nên chẳng có ai cứu rỗi người khác. Trò chuyện với những bông tuyết đầu năm. Đó là tết. Cái tết của giác ngộ.
 
phan
tết 2025
  

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bây giờ trời đã tối, nhiều người đi ngủ sớm. Bọn trẻ học bài dưới bóng ngọn đèn dầu ở ngoại ô, ngọn đèn đường gần bờ sông. Trước hàng rào kẽm gai, một người lính mang súng đi đi lại lại, một đôi tình nhân đi chơi về muộn. Ngọn đèn hỏa châu sáng bừng góc trời một lát rồi tắt. Người yêu quê hương đã đi ra khỏi mảnh đất của những hận thù dai dẳng mà vẫn muốn trở về. Người nông dân muốn cày lại thửa ruộng của mình. Người thợ sửa đồng hồ muốn ngồi lại cái ghế vải nhỏ thấp của mình sau tủ kiếng bày đồng hồ cũ và mới. Lò bánh mì chiếu sáng nhấp nhô bóng những đứa trẻ bán bánh mì đứng trước cửa sổ với bao tải lớn đựng bánh nóng mới ra lò. Con chim về ngủ muộn biến mất trong bụi cây chỗ anh đứng.
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.