Hôm nay,  

Tập Bản Thảo

02/05/202500:00:00(Xem: 1931)

Minh-họa-Đinh-Cường
Minh họa Đinh Cường

 

Chiếc ghế đá hầu như rất quen thuộc, dù nó cũng như mọi chiếc ghế khác trong công viên. Tháng Sáu. Bầy ve kêu inh ỏi. Chúng vô tư thật!
Đoan ngồi xuống. Mấy buổi chiều nay, tan học, Đoan ghé khu vườn rộng lớn này, như một người trở về, cảm giác thật khó tả. Chợt nghe trong đầu vẳng lại lời của một bài thơ:

Có ai qua vườn xưa
Bây giờ đã đóng cửa?
Bao nhớ nhung cho vừa
Khi cơn đau òa vỡ
Vườn xưa xanh những lá
Xanh kỷ niệm tuyệt vời
Cửa đóng rồi, xa quá!
Làm sao nhặt lá rơi?
 (*)

Đoan bùi ngùi. Bây giờ cửa vườn đã mở. Những hàng cây thật cao đứng yên như thuở nào. Nhưng cảnh đời không còn như xưa.

Một người trông quen quen đang đi về phía Đoan. Đoan nhận ra là Chân, người làm cùng sở với chị Thúy, có đến nhà một lần. Đoan gật đầu chào, tưởng anh ấy sẽ đi tiếp. Nhưng anh dừng lại, nói:

“Xin lỗi Đoan, tôi có thể ngồi nói chuyện với Đoan không?”

Đoan hơi ngạc nhiên, nhưng rồi gật đầu, vì phép lịch sự:

“Dạ, anh cứ tự nhiên.”

Đoan xích qua một bên cho rộng chỗ. Chân ngồi xuống, và mở đầu bằng câu hỏi thăm:

“Đoan vẫn đi học?”

“Dạ.”

“Trường lớp có gì lạ không Đoan?”

“Dạ, cũng có nhiều thay đổi, nhưng sau thì cũng quen rồi ạ.”

“Đoan vẫn viết văn?”

Câu hỏi rất bình thường nhưng khiến Đoan giật mình. Đoan im lặng vài giây, rồi đáp:

“Dạ không.”

Chân gật đầu:

“Tôi cũng đoán được.”

“Cám ơn anh.”

Chân hơi hạ thấp giọng:

“Thật ra, tôi là người rất mến mộ các tác phẩm của Đoan.”

“Vậy sao? Đoan chỉ là người viết cho tuổi học trò, không có gì to tát đâu anh.”

“Với tôi thì có. Tôi thật lòng mà nói như vậy. Và tôi hiểu, khi biết Đoan ngừng viết. Đoan không phải là người chỉ viết cho chính mình đọc. Đoan viết bài thì phải đăng bài, phải xuất bản. Tâm tư của Đoan là tâm tư của người đọc.”

“Cám ơn anh đã hiểu.”

“Cho nên… tôi thấy tiếc quá!”

Chân thở dài. Bỗng dưng Đoan lại nói như an ủi Chân:

“Không sao đâu anh! Đã có nhiều thứ mất mát to lớn quá, làm mình không nhớ tới cái mất mát của riêng mình.”

Hai người im lặng một lát. Tiếng ve bỗng rộn lên như một ban nhạc bắt đầu hòa tấu, như thể muốn làm chất xúc tác cho một đề tài mới. Khi Đoan định từ giã thì Chân lên tiếng:

“Đoan à, không phải tình cờ mà tôi gặp Đoan hôm nay. Thật ra là…”

“Sao ạ?”

“Thật ra tôi có hỏi thăm và được chị Thúy cho biết Đoan sẽ ra đây, nên tôi cố tình tìm gặp Đoan.”

Như đã bắt đầu được dễ dàng rồi, Chân nói, giọng đều đều:

“Đoan không biết nhiều về tôi, nhưng tôi thì tìm hiểu Đoan qua chị Thúy, và có thể nói là tôi mến Đoan qua những tác phẩm của Đoan. Tôi thành thật muốn làm bạn với Đoan…”

“Dạ, anh là bạn của chị Thúy thì cũng là bạn của Đoan rồi!”

“Không, tôi muốn… hơn một người bạn bình thường.”

“Đoan chưa hiểu ý của anh…”

“Chân yêu Đoan.”

Đoan chớp mắt, bỗng như nghe thấy một điều xa lạ. Sao mình lại không có cảm xúc nào hết? Câu nói bất ngờ của Chân như một câu hát không có nhạc đệm. Đoan ngồi im như bức tượng…

Gió xào xạc lá cây trên cao, như kéo Đoan về thực tại. Đoan tìm lời để đáp lại vẻ chờ đợi của Chân:

“Dạ… cho Đoan xin lỗi. Có lẽ lúc này Đoan chưa thể tiếp nhận được điều gì. Xin anh đừng buồn.  Anh có thể nghĩ là Đoan lạnh lùng cũng được. Nhưng Đoan không thể… Nếu anh yêu Đoan qua văn của Đoan thì e rằng chưa thực tế lắm, và Đoan cũng khó đáp ứng được với tình cảm của anh dành cho Đoan. Xin anh cho Đoan giữ ở mức bạn bè bình thường được không?”

Nét mặt của Chân lộ vẻ thất vọng. Đoan đứng lên, chào từ giã. Đoan không dám nhìn lại Chân. Đoan thấy mình hơi tàn nhẫn. Đoan loay hoay tự hỏi, tại sao lại có một sự tỏ tình giữa lúc này? Còn nữa, đơn giản là mình phải thấy vui khi có người nói mến mộ mình, nhưng tại sao lại không vui? Đoan tự trả lời:

“Vì mình đã buông bút.”

Nắng sắp tắt. Khu vườn tối dần. Những hàng cây vươn những cánh tay dài lên bầu trời. Tạm biệt vườn xưa đầy kỷ niệm của tôi.
 
2

Đoan kể cho chị Thúy nghe, và thú nhận rằng mình không có cách cư xử nào khéo hơn để Chân không buồn. Phải chăng Chân đã xuất hiện không đúng lúc? Đoan lắc đầu, tự nhủ mình không có lỗi. Trong những ngày tháng hỗn mang này, lòng người còn choáng váng trước những thay đổi và mất mát lớn lao, cảm xúc riêng tư như không có chỗ. Nhưng cũng chính sự xuất hiện của Chân khiến Đoan bừng lên sự mong mỏi được nhìn thấy Thắng. Thắng không ở trong đoàn người tản cư. Thắng không có mặt trong số những thương binh bị đuổi ra khỏi quân y viện. Thắng không tìm về gặp Đoan. Không có cách nào để liên lạc với Thắng nữa. Thắng như đã biến mất.

Đoan chơi vơi trong cảnh ngộ đổi đời. Hàng ngày vẫn đến trường nhưng không có lớp chuyên môn, chỉ có họp tổ thảo luận chính trị. Bạn bè trong lớp vắng mặt gần một nửa. Những anh chị “tổ trưởng” hùng hồn với những bài thuyết cách mạng. Rồi thì “phê và tự phê” trong tổ như cơm bữa. Đoan muốn bớt căng thẳng chỉ có cách ra công viên mỗi chiều sau giờ tan học, ngồi ở ghế đá, tìm lại chút cảm giác êm đềm. Nơi này, trước đây, cũng là chỗ Đoan cùng Thắng tìm một chút tĩnh lặng hiếm hoi trong những ngày thành phố bắt đầu chộn rộn với những dòng người di tản từ các nơi về. Cánh tay bị thương của Thắng vẫn còn băng bột, treo ngang trước ngực. Vì là thương binh nhẹ nên Thắng xin bệnh viện cho ra ngoài mỗi thứ Bảy. Hai anh em, lúc thì chuyện trò không ngơi, lúc lại cùng yên lặng, lắng nghe tiếng lá xào xạc cùng gió. Hai anh em, vâng, chỉ như hai anh em.

Lần cuối Đoan gặp Thắng là ở quân y viện. Cánh tay trái băng bột vẫn treo ngang trước ngực. Thắng đã bị thương biết bao lần. Sau khi vết thương lành, Thắng lại ra mặt trận. Thắng nói không biết mình hên hay xui. Thắng thường nhắc đến những người bạn của mình, có người phải bỏ hẳn một phần thân thể; có người đã chôn sâu trong đất.

Cũng là lần cuối trong bệnh viện, Thắng và Đoan chuyện trò rất lâu nơi hành lang phòng bệnh mát rượiKhi trở vào, Thắng lấy từ dưới chiếc gối một quyển sổ, bìa hơi dày, giống như những quyển “Lưu bút” của học trò trung học, khoe với Đoan:

“Đây là tập bản thảo những bài anh viết sau mỗi chuyến hành quân.”

Đoan vui mừng:

“Cho Đoan xem được không?”

“Chưa. Bao giờ viết đầy quyển sổ này, anh sẽ cho Đoan xem. Không chừng sẽ nhờ Đoan mang đến nhà xuất bản.”

“Ôi, hay quá! Đoan sẽ tình nguyện đem tới nhà xuất bản. Đoan có được làm người đọc đầu tiên không?”

“Nhất định rồi! Còn ai vào đây?”

Thắng lướt bàn tay lật nhanh những trang giấy, rồi lại cất cuốn sổ xuống dưới chiếc gối. Đoan kịp nhìn thấy, ở trang đầu tiên, tấm ảnh của cô bé mặc áo dài màu vàng, ngồi trên chiếc xe Cady cũng màu vàng.  
 
3

Hai chị em đi họp ở trụ sở phường để nghe chính trị, dành cho thanh niên trong các khu xóm. Mấy chục người đứng trong một khoảng sân rộng, từng là nơi tập trung các sách báo của thời trước để đốt. Hai chị em nhìn nhau, cùng một ý tưởng, nghĩ về những quyển sách mà mình đã cố ý giữ lại. Trong đó, có những quyển sách đã xuất bản của Đoan.

“Cán bộ” đứng trước micro, nói thao thao bất tuyệt về một đề tài không còn mới: giáo dục thanh niên theo chủ nghĩa xã hội. Tiếng loa rè rè nghe khó chịu. Nhìn quanh, thấy không mấy ai lắng nghe. Việc phải làm thì phải làm, cũng y như vào công sở hay trường học đều phải dự những buổi nghe như thế. Những buổi nghe mà khi ra về ai cũng còn duy nhất một điều để nhớ: “Hầu hết mọi người đều có tội.” Quân nhân có tội. Công chức có tội. Thầy giáo, bác sĩ, người bán hàng… cũng có thể có tội. Nói chung, ai sinh ra và, hoặc, sống ở Miền Nam, đều có thể có tội. Nhìn quanh, không biết có mấy ai đồng ý, mấy ai không đồng ý. Đoan chợt thương xót họ, thương xót mình. Con người không thể sống ẩn tàng dưới lòng đất như loài ve mấy năm hay mười mấy năm. Con người vẫn phải sống tiếp, dưới ánh mặt trời, phải đối diện với những cảnh ngộ hàng ngày.

Chân gửi đến Đoan một bức thư theo đường bưu điện. Bên trong, là một tờ giấy “pelure” màu xanh, gấp làm đôi, không có một chữ nào. Đoan cho chị Thúy xem. Chị Thúy thở dài:

“Anh chàng này thành thật lắm đó! Rất tiếc!”

Tờ giấy màu xanh không có chữ viết trên đó, cũng là nói lên nhiều điều. Đoan cảm thấy ái ngại. Nhưng biết làm sao hơn? Thôi thì cứ để thời gian trả lời cho Chân vậy. Cũng như mọi người đang sống, chờ thời gian trả lời câu “Biết ra sao?”

Thế rồi, lại cũng nhờ Chân, nhờ bức thư của Chân, khi Đoan ngồi thừ nhìn phong bì, bỗng liên tưởng đến một địa chỉ. Đúng ra, chỉ là một cái tên đường. Nhiều lần, trong khi trò chuyện, Thắng đã tình cờ nhắc đến tên đường nhà mình, nhưng không nói đến số nhà. Đoan đứng bật dậy. Mình chưa bao giờ biết đến con đường này. Nhưng mình sẽ đi tới đó.
 
4

Đường Mai Hắc Đế, quận Tám. Đoan theo bản đồ, tìm được rồi! Đạp xe đạp, chạy thong thả, chắc sẽ đến nơi. Dọc theo Bến Bình Đông, nơi tấp nập những người phu khuân vác mang hàng từ dưới thuyền lên các kho trên bờ. Họ đi trên những tấm ván dùng làm cầu, nhún nhảy theo bước chân. Càng đi, cảnh vật càng giống ở thôn quê. Đoan đi qua mấy chiếc cầu gỗ cao ngất, phải dắt xe đi chứ không đạp lên nổi. Thắng đã có một nơi ẩn dật sau những ngày hành quân.

Đường Mai Hắc Đế không dài. Mình hỏi từng nhà, chắc sẽ tìm ra nhà của Thắng.

Nhưng không phải mất công nhiều. Đoan nhìn thấy ở trước một ngôi nhà, một hình ảnh đập vào mắt, khiến Đoan vụt nhớ lại trong một giây. Một chiếc xe lăn! Một người thanh niên ngồi trên chiếc xe lăn! Thắng có lần nói về cô em gái của Thắng lấy chồng thương binh. Đoan nghe tim mình đập nhanh. Chẳng lẽ là đây?

Đúng là nhà của Thắng. Thắng ở cùng cha mẹ và các em của Thắng trong nếp nhà này. Chỉ cần nói mình là bạn của Thắng, Đoan đã nhận được sự vồn vã ân cần của mọi người.

Thắng không có trong nhà. Nhưng Lan, em gái của Thắng, có nét mặt giống hệt anh mình, tiếp chuyện Đoan. Đoan thỉnh thoảng lén nhìn người chồng của Lan, rồi nhìn Lan, với lòng khâm phục. Mới gặp lần đầu nhưng Lan đã tỏ vẻ thân thiết với Đoan ngay. Lan mời Đoan vào phòng, nói:

“Em muốn gửi chị cái này.”

“Gì vậy Lan?”

“Lẽ ra là em giữ cho anh Thắng. Lần về nhà gần đây nhất, tuy chưa được xuất viện vì vết thương chưa lành, nhưng anh Thắng nói anh muốn để những thứ quý báu ở nhà, vì tình hình xem ra không mấy yên ổn. Anh cũng vào lại bệnh viện để được khám vết thương hàng ngày. Rồi thì sau ngày ba mươi, anh không về nữa. Bây giờ thì không còn tin tức gì. Bạn bè của anh cũng chịu thua. Gia đình chỉ còn biết chờ đợi, mong anh trở về hoặc nhắn tin. Cái mà em muốn giao cho chị, là quyển sổ này, tập bản thảo của anh Thắng.”

Đoan giật mình. Tập bản thảo! Quyển sổ mà Thắng khoe với Đoan lúc ở trong bệnh viện!

“Sao Lan nghĩ là giao lại cho chị? Anh Thắng có dặn không?”

“Anh Thắng không dặn. Anh chỉ nói rằng anh hứa cho Đoan là người đọc đầu tiên. Bây giờ em đã gặp chị rồi, em sẽ giao lại cho chị. Anh Thắng về chắc cũng không rầy em đâu!”

“Cám ơn Lan. Chị sẽ giữ gìn thật kỹ cho anh Thắng.”

Nắng sắp tắt. Đoan phải từ giã gia đình đáng mến này. Lưu luyến nhất là vợ chồng của Lan. Người vợ trẻ đẩy xe lăn cho chồng, tiễn Đoan một đoạn đường. Con đường mới làm quen buổi sáng, trở thành con đường thân yêu vào buổi chiều. Những chiếc cầu gỗ cao nghệu chuyển mình nghe răng rắc. Bến Bình Đông, trời sắp tối, không còn những người vác gạo từ dưới thuyền lên bờ. Đoan trở về thành phố náo nhiệt.

 5

Tập bản thảo! Thắng thường viết trong những lúc xa nhà. Những người lính mang cuộc sống của mình vào văn, thơ, nhạc. Nhưng có mấy ai được biết đến? Có mấy ai được người ta biết đến tác phẩm của mình như Phạm Lê Phan, như Phạm Văn Bình? Đoan đã từng đọc, từng ngâm, từng hát thuộc lòng tác phẩm của họ. Nhưng chưa bao giờ Đoan được đọc tác phẩm của Thắng. Những người lính thực thụ từng viết về những gì họ sống. Chiến tranh đã nhuốm đầy tác phẩm của họ. Người ta nói, đi trận hoài, làm gì có thì giờ để viết văn, làm thơ? Vậy mà họ đã viết. Họ viết rất nhiều. Có người, khi nằm xuống, dưới đáy ba-lô còn nguyên tập bản thảo chưa hề có ai đọc. Đoan đã từng có những tác phẩm được xuất bản, để rồi bị cấm, bị đốt, hoặc được lén lút giữ lại trong các ngăn tủ gia đình, như báu vật. Viết văn, làm thơ, đã như là định mệnh của một số người. Có người được độc giả đón nhận, cảm mến, yêu! Có người mãi mãi không ra mắt được tác phẩm của mình.

Ngồi yên lặng, Đoan mở giỏ xách, lấy ra quyển sổ của Thắng. Trông như những quyển “Lưu bút” của học sinh trung học. Rưng rưng cảm động, Đoan biết nét chữ này quen, những chuyện Thắng viết cũng sẽ rất quen, nhất là những bức thư Thắng viết từ Khánh Dương trong những ngày rút quân, gửi về cho Đoan. Cảm động hơn nữa, mình được là độc giả đầu tiên.

Đoan mở trang đầu. Dòng chữ Thắng viết hoa, to, đậm, như thể là tựa đề cho tác phẩm của mình: “Cám Ơn Người Yêu Dấu.”

Bên dưới dòng chữ ấy là tấm ảnh của Đoan cho Thắng vào mùa hè năm 1972, mặc áo dài màu vàng, ngồi trên chiếc xe Cady cũng màu vàng.
 
Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh
(Trích Chuỗi truyện ngắn “Những Ngày Nắng Vỡ”)
 (*): Bài thơ Vườn Xưa- Cam Li (1975)
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sau này, mỗi khi muốn kết bạn với ai, tôi thường nghĩ về Bi, về lúc Bi cầm tay tôi cho con Nâu ngửi với sự trấn an vô tư của trẻ con thời khó khăn nhất. Chúng tôi không có đồ chơi, không có không gian lớp học năng khiếu, thi tài, không có những cuộc chạy đua đồ đạc mới hay chôm đồ đạc của nhau trong lớp học. Chúng tôi chỉ có bàn tay, con Nâu, đường đất đỏ về nhà và một bờ sông nguy hiểm.
Kể cả sau khi ra trường đi dạy, góc nhìn chọn lựa đàn ông của tôi rất giới hạn. Không cần đẹp trai, nhưng không thể xấu. Không quá cao, cũng không thể lùn. Không ăn diện thời trang, cũng không quê mùa. Không nói nhiều, cũng không câm nín. Không cần thông minh, nhưng đừng ngu khờ. Không cần làm anh hùng, nhưng đừng hèn nhát. Nhưng các tiêu chuẩn này không có nghĩa tôi sẽ chọn người trung bình.
Một ngày cuối tháng tám, vợ chồng tôi chở anh chị đi chơi, ăn uống; đang ăn bỗng dưng anh nhìn xa xăm, nói vu vơ như không cần người nghe: - Tôi cần một phương pháp trợ tử! Tôi giật mình lo lắng đưa mắt nhìn chị, nước mắt đong đầy trong hốc mắt, chị nhẹ nhàng tâm sự: - Ai cũng phải đến ngày đó thôi! Anh đã chịu đựng đau đớn mỗi lần lọc thận về, ăn uống không được ngon miệng nữa, ngủ nửa đêm thức giấc vì nóng hay lạnh quá, không được uống quá nhiều nước cho dù có khát cách mấy vì thận đã không làm việc nổi. Anh lại thương chị mỗi khi thấy chị cực giúp anh làm vệ sinh cá nhân. Con cái ở xa, chúng có cuộc sống riêng, đâu thể lúc nào cũng kề cận lo cho cha mẹ mãi được, khi cần chúng có thể đến giúp có hạn mà thôi…
Tuy không còn ở đó nhưng hắn vẫn thường nhớ những chiếc lá vàng trên cây khế nhẹ rơi, giàn hoa giấy rực rỡ cười với nắng trước mưa chiều. Cái máy hát cũ kỹ với băng đĩa nhão vừa hợp với nhạc sến, “tình chỉ đẹp khi còn dang dở…” Hắn gởi gió cho mây ngày bay một đoạn đời hư thực huyền ảo như lời nhạc rả rích từ cái máy hát lớn tuổi hơn hắn lúc bấy giờ khi những toan tính về tương lai chưa có đáp số thì bài toán một với một đã không bao giờ là hai từ khi em lấy chồng.
Chiếc Airbus A380 của hãng hàng không Emirates từ từ đáp nhẹ nhàng xuống phi trường quốc tế Tokyo Narita. Airbus A380 là loại máy bay khổng lồ, có thể chứa trên 500 hành khách, chỗ ngồi rộng rãi, thoải mái và bay rất êm...
Tuy Hòa, nơi tôi sống quãng đời thơ ấu, là một thành phố nhỏ hiền hòa nằm sát bờ biển, giống như nàng “Mỹ Nhân Ngư” phơi tấm thân kiều diễm trên bãi cát trắng tinh. Nàng dựa đầu trên núi Chóp Chài, đôi mắt mơ màng nhìn ra biển Đông, nghe gió thổi vi vu qua những bãi thùy dương dày đặc trên bãi biển Đại Lãnh, đầu đội vương miện hình Tháp...
Hôm nay, tôi lại có dịp ghé vào “cõi riêng” của tôi để lau dọn, quét bụi. Nhìn thùng sách nằm nơi góc phòng, tôi nhớ anh Quang, không dám mở thùng sách ra, rồi chẳng hiểu sao, lại tha thẩn ngồi xuống ngắm nghía những cuốn albums và tủ sách của riêng mình. Tôi nhẹ nhàng lấy ra từng cuốn sách, xem tựa đề, để tâm hồn lại lang thang trôi về quá khứ.
Có nhiều người tự hỏi là tại sao sang đến xứ tự do tạm dung này lại có những chuyện buồn như thế xảy ra cho người đàn ông, thay vì chỉ thường thấy xảy ra cho người đàn bà khi chúng ta còn ở quê nhà. Chắc rất nhiều người trong chúng ta, nhất là phái nam, đều hiểu rõ có nhiều nguyên nhân rất sâu xa, tế nhị, phức tạp, không tiện nêu ra ở đây, nhưng câu chuyện tình buồn được kể lại sau đây là một trong những trường hợp điển hình
…Khi anh tới cổng viện dưỡng lão, trời đã chạng vạng tối, chỉ còn bà mẹ anh và bà thư ký ngồi co ro trên ghế đá… họ đợi anh, bà thư ký vội báo cho anh hay là anh hãy canh giữ, nuôi bà cụ khoảng một tháng, chờ tình hình dịch bệnh tăng giảm ra sao, rồi thành phố sẽ quyết định và nhà già sẽ liên lạc với anh ngay sau đó. Bà thư ký đi khỏi, anh quay lại ngó mẹ và đau lòng thấy bà cụ co dúm như một mớ giẻ rách khô… anh đỡ mẹ ra xe, và nhỏ nhẹ khuyên trấn an: - Mẹ cứ về ở với con ít lâu, coi tình hình ra sao?
Có nhiều người sợ hãi khi nghĩ đến cái chết, nhưng thật ra nếu nghĩ thường xuyên đến cái chết là một việc hết sức tích cực và giúp cho người già rất nhiều. Mỗi khi nghĩ đến cái chết giúp cho ta thức tỉnh và sống trở lại giây phút hiện tại và quán chiếu xem mình phải làm gì trước khi nhắm mắt lìa đời. Nghĩ đến cái chết giúp ta dừng lại, xem xét những việc mình đang làm, những gì mình ước mong thực hiện và những tham vọng về tiền tài, chức phận, vật chất để được hưởng thụ. Khi tuổi về già chúng ta không nên tránh né nghĩ đến cái chết, mà nên nghĩ đến nó thường xuyên và nhất là nên chuẩn bị cho cái chết. Khi chuẩn bị cho cái chết ta sẽ suy nghĩ chín chắn hơn những gì nên và không nên làm trước khi qua đời và mình sẽ tự giúp tránh những việc vô ích, không có ích cho ai và mất thì giờ, để dành cho những việc quan trọng hơn, có ích lợi
Xâu chuỗi ngọc. Những viên đá quý. Tôi lại mỉm cười. Quý hay không quý tôi cũng không biết. Tôi không biết gì về vàng bạc, nữ trang. Tôi chỉ biết là tôi thích những tia màu phản chiếu lấp lánh phát ra từ những hạt đá nhỏ trong xâu chuỗi. Những tia màu như những câu chào hỏi rộn ràng. Cũng có thể xâu chuỗi làm bằng những hạt đá giả bằng nhựa. Bởi chúng rất nhẹ. Người đàn bà làm tôi xiêu lòng. Tôi sẽ mua tặng người yêu như lời bà ta nhắc nhở, dù tôi không chắc là đến ngày tháng này tôi đã có người yêu hay chưa. Tiểu Quyên là người nữ duy nhất trong thế giới tôi. Nhưng Tiểu Quyên với tôi là hai người bạn, hay đúng hơn là hai chú cháu.
Chiếc xe đò rẽ vào ngả ba Lộ Tẻ, chạy chậm lại rồi ngừng hẳn. Trên xe một số người nhốn nháo, ló đầu ra cửa sổ xem có chuyện gì. Anh phụ xe nhảy xuống vội vàng chạy về phía trước. Đã hơn 2 giờ chiều, trong xe hầm nóng và trở nên ồn ào. Vài phút sau, anh phụ xe trở lại và báo tuyến đường về Rạch Giá đã đóng vì nước lũ về ngập một số đoạn đường dài phía trước. Tất cả bà con phải xuống xe, hoặc tìm nhà nghỉ tạm chờ nước rút, hoặc bao đò máy về Rạch Giá. Đó là một buổi chiều giữa mùa nước nổi, tôi theo dòng người bước xuống xe, trời hanh nắng và đứng gió. Đường xá, đò ghe tôi không biết rành, chắc là phải tìm nhà xin trọ, chờ nước rút.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.