Hôm nay,  

Dây Phơi Mùa Hạ Cũ

30/05/202500:00:00(Xem: 721)

mua ha cu
Minh họa Đinh Trường Chinh

để nhớ Western Ontario University
 
Ở xứ ấy, người ta ngủ đến trưa mới dậy. Chàng nhớ thế khi nghĩ về mùa xuân, mùa hạ, mùa thu khi còn bé, mỗi lần nghĩ thế, đều lấy làm ngạc nhiên, và lấy làm ngạc nhiên về sự ngạc nhiên ấy. Thế mà giữa một thành phố châu Âu, chàng lại gặp chúng. Trên nền tường trắng và mặt biển xanh, giữa những màu xanh và trắng, chỉ hai màu ấy, đôi khi xanh và đỏ, chàng gặp lại chúng, hồ hởi, tưng bừng, nó và chàng như  hai thằng bạn thời mặc quần xà lỏn nay gặp nhau. Sau này đi nhiều nơi, cũng lại gặp nữa, nhưng chúng bơ vơ lẩn lút giữa những cao ốc sang trọng và các dãy nhà xám xịt người nghèo. Chỉ riêng một thành phố Địa trung hải đó, ở đó những dây quần áo tung bay rực rỡ trong nắng chói không chút e lệ. Chàng đứng, dựa lưng vào bờ tường có cây lựu ra trái đỏ, bên một con đường lên dốc có những chiếc xe tải chạy qua làm bụi bay mù, nhìn ngắm sợi dây dài, căng những chiếc áo đầm, sơ mi đàn ông, đủ thứ trang phục, những đôi vớ bay phấp phới, giày trẻ em lủng lẳng, mũ, nón. Trong thành phố của chúng ta, mọi người đều dùng máy giặt và sấy. Ngay cả những ngày đẹp trời nhất người ta cũng không nghĩ đến chuyện đem áo quần ra phơi. Vậy chàng đứng đó giữa buổi trưa nắng gắt, gió rì rào, nhìn thấy quê nhà. Chàng đếm kỹ từ đầu đến cuối dây phơi, bằng sợi tơ đồng, có ba mươi hai thứ, quần áo đàn bà đàn ông và trẻ con lẫn lộn. Ngày trước không phải thế, cái nào ra cái đó. Mẹ chàng có một cái sân phơi nhỏ, sau bếp, gần chuồng gà, dây phơi đàn ông và dây phơi đàn bà tách biệt. Nhiệm vụ của chàng lúc còn bé là mỗi khi trời sắp mưa, mà ở xứ ấy hay có mưa giông, chúng ào ào, rào rào, ngắn vui vẻ, kịch liệt, như cuộc làm tình của những tình nhân quen biết đã lâu, nhàm nhưng không chán, ít thơ mộng, nhiệm vụ của chàng là mau chân mau cẳng chạy về mang áo quần vào. Có một ngoại lệ: đứa trẻ không bao giờ thấy quần lót đàn bà đâu cả. Bây giờ trong thành phố lớn, chỉ những người nghèo mới phơi quần áo. Đi qua những chung cư của họ, bạn nhìn thấy chúng phất phơ các cửa sổ như những ngọn cờ của một lý thuyết đấu tranh đòi bình đẳng xã hội. Chúng ta nói về môi trường, ký vào các kiến nghị bảo vệ súc vật, bảo vệ rừng và biển, nhưng chúng ta thản nhiên ném áo quần vào máy giặt sấy. Con người ngày càng muốn được đẩy lên cao hơn trong các vị trí đẳng cấp. Bây giờ không phải chỉ là sự đói rách, bây giờ là đẳng cấp, tiền bạc, lòng ham muốn, mới làm con người đau khổ, và không có sự đau khổ nào nhẹ nhõm hơn sự đau khổ nào. Đó là những ý tưởng vẩn vơ của chàng khi đứng trong buổi trưa cuối vườn cái xóm ngoại ô thành phố London, Canada, nơi chàng ở trọ nhà của một nhạc sĩ, bạn vong niên của một anh bạn. Ông nhạc sĩ này còn có một căn nhà nhỏ khác cho thuê, bên cạnh. Chàng nhìn người hàng xóm mới đến, đang tất bật mang áo quần ra phơi sau bụi cây sơn trà, cô ta mới dọn về đây và chưa kịp sắm cho mình một cái dây phơi, chàng thầm đoán. Cô mang những áo, váy, quần jeans, giày và vớ treo lên bụi cây làm những cành lá trĩu xuống. Buổi sáng gấn trưa hôm sau, đi làm về, vì làm việc ca nửa đêm, chàng nhìn thấy nó. Nó nằm trên cỏ phía vườn của chàng như một chiếc lá rụng. Chàng không biết cô gái tên gì, ở với ai, hay một mình. Chàng tới gần, chăm chú nhìn thật kỹ và suy nghĩ xem phải làm gì với nó. Không phải là cây trâm cài tóc của cô Kiều. Không. Chàng đưa tay sờ thử, nó ấm, đen, mượt như nhung, kích thước bằng bàn tay, còn hơi ẩm ướt vì nằm khuất hẳn trong bóng râm. Chàng kéo nó ra xa ngoài ánh nắng. Vụng về, chàng bị cành cây bật lên đâm xước vào tay. Những cuộc đổi dời đã xô đẩy họ đi mỗi lúc một xa, quá khứ chỉ còn là tưởng niệm nghiêm trang. Chỉ là cuộc gặp gỡ ngắn. Rồi sau đó chàng chuyển nhà. Lẽ ra chàng đã có thể làm quen với người hàng xóm mới. Nhưng không. Cuộc trò chuyện bên rào. Cuộc trò chuyện vui vẻ nhưng khó khăn, ngập ngừng. Chiếc quần lót gói trong giấy báo, nữa hững hờ nữa kín đáo, vào lúc chiều tối, hình như vào lúc có một ngôi sao mới mọc, rõ to. Ôi chao chỉ có thế thôi sao. Lẽ ra hai người đã có thể quen nhau. Họ đã có thể đi xa hơn nữa. Mảnh vải nhỏ xíu ấy đã khô từ bao mùa hạ cũ. Mỗi khi tình cờ đứng nhìn sợi dây phơi quần áo, mà chúng bay phấp phới như những mảnh cắt, cắt ra từ những ngày tháng đẫm mặt trời, chàng tưởng rằng chỉ cần trở lại đó, đứng bên hàng rào, sau bụi sơn trà kia, thì tự khắc chiếc lá ấy lại trở về, nửa khô nửa ướt, và nghe lại được giọng nói của nàng vào lúc đó. Giọng nói ấy không có gì đặt biệt, nhưng ngân nga.
- Chời ơi.

Đó là câu buột miệng của nàng khi mở gói giấy báo kia ra.

Nguyễn Đức Tùng
  

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngoài sảnh cả một biển người loi nhoi dáo dác tìm người thân của mình, Dean D mũ lệch, kiếng đen bước đi khệnh khạng ra vẻ lắm, nhiều ánh mắt nhìn theo tỏ vẻ thèm thuồng pha lẫn ngưỡng mộ.
Hùng mơ màng, suy nghĩ. Đã nhiều lần anh chàng tự nhủ, ừ, tại sao lại không, tại sao lại không nghĩ nhỉ. Không có gì quý hơn độc lập tự do, thì tại sao lại không tận hưởng cái quyền độc lập và tự do không giới hạn này, nghĩ. Nghĩ thế, Hùng cứ một mình tiếp tục ung dung suy nghĩ, đố đứa nào báo cáo, chúng mày có giỏi thì kiểm thảo xem.
Trong suốt một thời gian dài, gần như những năm cuối trung học, gia đình tôi không có một kỳ nghỉ hè nào vui vẻ bên nhau. Tất cả đã chấm dứt từ cái mùa nghỉ hè năm lớp chín, khi bố tôi phải lòng cô thư ký của ông. Mà cô thư ký ấy lại chính là cô giáo cũ của tôi, người tôi rất quý mến.
Nhà văn Võ Hồng sinh ngày 2/12/1922 (khai sinh ghi 5/5/1921) tại làng Ngân Sơn, quận Tuy An, tỉnh Phú Yên. Ông sớm mồ côi mẹ. Thuở nhở Võ Hồng ng học trường làng, trường phủ Tuy An, trường tỉnh Sông Cầu, rồi trường Collège Quy Nhơn. Năm 1939 khi đang học Đệ Tam, ông cùng bạn bè viết bích báo và ông chọn một trong số những truyện đó gửi cho báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy là tờ báo có nhiều độc giả nhất lúc đó tại Hà Nội.
Bầu trời cuối thu xanh thăm thẳm, cái màu xanh tưởng chừng như bầu trời thông đến tận cùng thế giới. Từng đám mây trắng bồng bềnh, lững lờ trôi, chúng thong dong tự bao đời đời nay giữa trời đất bao la, mặc cho lòng người khúc mắc, mặc cho thế sự điên đảo…
Vô cùng thương tiếc Trung Tá Phi Công Nguyễn Văn Triều
Anh bước vội vào trong toa xe điện. Một chút ăn năn vì anh về muộn. Anh lỡ quên, hôm nay ba mươi Tết! Anh tìm một chỗ ngồi kín đáo và cố thu người sao cho ấm. Anh vụt nhớ, bên nhà giờ này là mồng một Tết. Anh nhớ câu thơ ai viết:“ Đêm xuống bên ni, Ngày lên bên nớ”. Mắt anh đau đáu nhìn ra ngoài trời. Chicago tràn ngập tuyết.
Tuyết! Đấy là cái ám ảnh dai dẳng của tôi trong một thời gian rất dài. Nước tôi không có tuyết, và lẽ dĩ nhiên cũng không có nhiều món đặc trưng khác của Tây, của Tàu, của Châu Phi chẳng hạn, thế nhưng ước mơ của tôi được thấy tuyết tận mắt là tha thiết hơn cả.
Chúng tôi đinh ninh rằng chúng tôi là những người hồi cư sớm nhất, nhưng không phải. Về đến địa hạt Dương Xuân Thượng, chúng tôi biết rằng đã có nhiều gia đình về trước chúng tôi đến cả nửa tháng. Trên con đường núi đưa về chùa, cỏ mọc che cả lối đi. Chú Tâm Mãn đẫn đầu đoàn người hồi cư, có vẻ nóng nảy hơn hơn ai hết.
Nếu một ngày có hai mươi bốn giờ thì trong cơ thể em cũng nhốt đủ hai mươi bốn cái xương sườn. Một ngày kia, có thể gọi là giờ thứ hai mươi lăm, em gặp phải tai nạn làm gãy mất một cái xương sườn. Vào bệnh viện, chụp quang tuyến X và người ta ra tay giải phẫu, thò tay vào chỗ hóc hiểm để bắt tạm cho em một con vít bằng kim loại, hy vọng đôi ba tháng sau em thôi ca cẩm hát hò bản nhạc “chuyện một chiếc cầu đã gãy”.
Thằng bạn kể, khi nó vào thăm Má nó đang ở nursing home, má hỏi: "Mày vừa từ địa ngục về thăm tao đó hả?" Nó vừa dứt tiếng thì trời nổi gió gào, và tối om, và tôi với tên bạn lạc nhau.
Chiều nay, một buổi chiều cuối năm, tôi bắc ghế ra ngồi ngoài hiên, và tuy đây là một ngõ hẻm khi ngẩng lên tôi vẫn thấy được một vài vì sao lấp lánh. - “Những vì sao cuối năm!” – tôi nghĩ vậy. Đồng thời tôi nhận thấy có sự hiện diện của chòm sao thất tinh quen thuộc.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.