Hôm nay,  

Tú Tài

26/09/202500:00:00(Xem: 2100)

tu tai 1
Tin trên báo về việc áp dụng thi Tú Tài IBM năm 1974.

Cho tới bây giờ, thỉnh thoảng trong giấc ngủ tôi vẫn nằm mơ tới chuyện thi Tú tài và giật mình tỉnh dậy, mừng húm mà mồ hôi vẫn đổ ra. Trong lần thi Tú Tài I, tôi đã thức đêm thức hôm học đến bị yếu phổi. Chữ “Tú Tài” nặng nhọc với tôi như vậy tuy nghĩa của nó là “đẹp đẽ, có khả năng, tài giỏi”.

Ông Tú Xương có lẽ cay đắng với chữ “Tú Tài” không kém gì tôi. Ông vác lều chõng đi thi tất cả 8 lần, từ khoa Bính Tuất (1886) tới khoa Bính Ngọ (1906). Ba lần đầu ông đạp vỏ chuối, tới lần thứ tư, năm Giáp Ngọ (1894), ông mới vớ được cái Tú Tài nhưng là Tú Tài đậu vớt, chữ ngày đó gọi là “Tú Tài Thiên Thủ”. Ông chết với cái danh Tú Tài, chẳng bao giờ kiếm được cái “Cử Nhân” mặc dù vẫn cặm cụi đi thi. Khoa Quý Mão (1903), ông đồi tên thành Trần Cao Xương để xả xui nhưng chân đạp vỏ chuối vẫn cứ dính vỏ chuối. Ông nổi cáu thành thơ: “Trách mình phận hẩm lại duyên ôi! / Đỗ suốt hai trường hỏng một tôi / Tế đổi làm Cao mà chó thế / Kiện trông ra tiệp hỡi trời ôi!”. Tôi thuộc loại chữ Hán ăn đong nên khựng lại với câu thơ cuối. Nghĩa nó là chi? Hỏi ông Google ông giải thích: “"Kiện" là một danh từ chỉ đơn vị đo lường, ở đây dùng để ám chỉ một vật gì đó rất nhỏ bé, "trông ra tiệp" ý nói nhìn mãi vẫn không thấy, ám chỉ sự vô vọng, không tìm ra lối thoát”. Hỏi ông AI (Trí Tuệ Thông Minh), ổng lại nói khác: “Kiện” chỉ những người đi thi. “Trông ra tiệp” có nghĩa là trông mong, trông đợi vào một kỳ thi để “tiệp” là “tiếp” hoặc “đạt được”. Ý nói là mong được thi đỗ”. Thôi thì xin lãnh hội hết mà trong lòng vẫn phân vân

tu tai 2

Cái danh Tú Tài thời ông Tú Xương chẳng ra chi, dở dở dang dang, không được thi Hội, không được bổ làm quan, chỉ làm được giáo quèn tại quê. Muốn được bổ làm quan phải đậu Cử Nhân. Muốn có Cử Nhân phải đậu 4 kỳ thi Hương tức 4 lần Tú Tài, sau đó vào Huế dự kỳ thi Hội để có thể lấy bằng Cử Nhân hoặc Tiến Sĩ. Người chỉ đậu 2 Tú Tài gọi là Tú Kép, 3 Tú Tài gọi là Tú Mền, 4 Tú Tài được gọi là Tú Đụp. Nhà thơ Tú Xương thi cả thảy 8 lần nhưng không đậu đủ 4 phùa nên về…làm thơ!

Việc thi cử ở nước ta khởi đầu vào năm 1072, thời nhà Lý nhằm chọn người tài ra giúp nước. Trước đó, việc tuyển chọn người ra làm quan chỉ là tùy tiện, không có phép tắc chi. Trong “Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí” của Phan Huy Chú, chương Khoa Mục Chí, có ghi: “Con đường tìm người tài giỏi, trước hết là khoa mục, phàm muốn thu hút người tài năng, thì người làm vua một nước không thể nào không có thi cử”. Thời kỳ manh nha của thi cử tại Việt Nam, tỷ lệ thi đỗ quá thấp, việc học lại quá từ chương, khiến có nhiều sĩ tử lận đận cả đời với thi cử. Ông Đoàn Tử Quang bắt đầu dự thi từ năm 20 tuổi, thi tới 21 lần, mãi tới tuổi 83 mới công thành danh toại. Ngặt nỗi mỗi ba năm mới mở một kỳ thi nên cơ hội không nhiều. Ông nội của Ngô Tất Tố đi thi 7 lần, bố Ngô Tất Tố khăn gói dự thi 6 lần. Ông Ngô Tất Tố hên hơn, chỉ phải thi có 2 lần. So với tiền nhân, nỗi buồn thi cử của ông Tú Xương nào có thấm chi!

Chữ “Tú Tài” được vua Minh Mạng ban ra vào năm 1828. Trước đó người đậu kỳ thi Hương được gọi là “Sinh Đồ”. Tới thời Pháp thuộc, bằng tốt nghiệp trung học Pháp được gọi là “Baccalaureat”, mượn từ chữ La Tinh thời Trung Cổ “Baccalaureus” có nghĩa là “Thanh niên quý tộc muốn trở thành hiệp sĩ”. Niên khóa 1926-1927, nhà cầm quyền mới lần đầu tiên tổ chức kỳ thi “Bacalaureat de l’Enseignement Secondaire Local”, người ta dùng ngay chữ “Tú Tài” thành “Tú Tài Bổn Quốc” tuy hai chữ “Baccalaureat” và “Tú Tài” chẳng ăn nhậu chi với nhau. Baccalaureat tại Pháp thi hai kỳ: Bacalaureat I và II trong khi Tú Tài Bổn Quốc thoạt đầu chỉ có một kỳ duy nhất. Tuy chỉ có một kỳ nhưng thí sinh vất vả hơn nhiều vì phải học nhiều môn mà Tú Tài Tây không có như: văn chương Pháp và Việt, Triết Đông và Cận Đông, triết Tây, toán, khoa học, chữ Nho, sử địa tây lẫn ta. Thí sinh học ná thở. Thi cực khổ như vậy nhưng không phải tự nhiên mà thực dân tạo ra kỳ thi Tú Tài Bổn Quốc. Các cụ thời đó phải tranh đấu mới có chuyện thi bằng này. Cụ Bùi Quang Chiêu với tờ La Tribune Indochinoise, cụ Nguyễn Phan Long với tờ Echo Annamite, công kích kịch liệt nhà nước áp dụng chế độ ngu dân chỉ cho dân chúng học tới trình độ Trung học Đệ Nhất Cấp chứ không cho học cao hơn nữa. Tới niên khóa 1937-1938 bằng Tú Tài Bổn Quốc bị bãi bỏ. Tú Tài Tây được tổ chức thi thay thế. Tú Tài Tây nên ngôn ngữ chính là tiếng Tây. Năm 1945 Hoàng đế Bảo Đại ra đạo dụ dùng chữ Quốc ngữ trong các kỳ thi Tú Tài nhưng phải qua tới thời Đệ Nhất Cộng Hòa tiếng Việt mới được đưa vào làm ngôn ngữ chính trong các kỳ thi Tú Tài.

Khi di cư vào Nam vào tháng 7/1954, tôi theo học lớp Đệ Tam tại trường Chu văn An và tham dự kỳ thi Tú Tài I vào mùa hè năm 1956. Tôi theo học ban Văn Chương, gọi là ban C. Tôi không thích các môn toán, lý, hóa và vạn vật nên không theo các ban A và B. Khi thi Tú Tài I hệ số của các môn chính Việt văn, Anh văn và Pháp văn có hệ số 3, các môn khác có hệ số 1 hoặc 2. Toán hay Lý Hóa nếu làm đúng rất dễ được điểm 18/20 hoặc 19/20. Nhân với hệ số 3 vì đó là các môn chính của các ban A và B. Kết quả là dễ đậu hơn ban C. Ban C các môn chính có hệ số 3 là Việt văn, Anh văn và Pháp văn khó mà được điểm 12/20 hoặc 13/20. Năm tôi thi Tú Tài I, số thí sinh trúng tuyển của ban C chỉ có 10%. Mười anh chị ứng thí chỉ có một được nêu danh. Ngày đó có lối tuyên bố kết quả thi rất đau tim. Tới giờ tuyên bố, thí sinh và phụ huynh tập họp trong sân trường hồi hộp theo dõi xướng tên người trúng tuyển trên máy phóng thanh. Khi chiếc máy phóng thanh è è kêu, mọi con tim treo lên trong hồi hộp. Con số báo danh được đọc nhảy như cóc. Có lúc nó nhảy qua cả một phòng không có ai đậu.

Được xướng tên chưa chắc đã thành Tú Tài vì còn kỳ thi vấn đáp. Thi vấn đáp tựa như ra tòa án. Trực tiếp đối diện với các phán quan mặt sắt đen xì. Theo tôi nhớ thì trong các kỳ thi vấn đáp ngày đó tôi không bao giờ gặp một nữ giáo sư. Nếu được đối diện với mặt hoa da phấn chắc sẽ dễ chịu hơn. Phần lớn các giám khảo hỏi vấn đáp đều làm theo lương tâm nghề nghiệp, cho rút thăm câu hỏi, dành 10 phút cho thí sinh sửa soạn trước khi mặt đối mặt trả lời. Nhưng cũng có những trường hợp ngoại lệ. Tôi đã kể đâu đó vài trường hợp mà chính tôi và chú em tôi gặp, nay chỉ nhắc lại qua loa. Hung thần của môn vấn đáp Pháp văn hồi đó là Giáo sư Võ văn Lúa, có vợ đầm. Gặp ông phần lớn là…lúa đời! Vậy mà tôi gặp ông. Khi tôi đang ngồi sửa soạn câu đáp, bỗng nghe thấy ông đập bàn rầm rầm quát anh bạn đang thi: “Nếu anh là con trai tôi, tôi sẽ tát cho anh một cái!”. Tôi ngồi run như cầy sấy. Tới lượt, tôi lên bảng trả lời khá trôi chảy, ông cám ơn, tôi liếc cây viết trên tay ông, thấy ông ghi số điểm 13/20. Nhưng chuyện sau đó mới vui. Một anh bạn cùng lớp không qua khỏi kỳ thi viết, chưa bao giờ vào vấn đáp, bỏ học ngang nhưng thành công trong cuộc sống với nghề phóng viên nhiếp ảnh chiến trường cho các hãng thông tấn Mỹ, sau này mời tôi đi ăn cưới anh. Cô dâu bữa đó chính là con gái thầy Lúa! Chú em tôi bị một ông Thầy dạy Pháp văn đì khi theo học ông trong lớp Đệ Nhị tại trường Chu văn An. Khi ông thấy tên chú được vào vấn đáp, ông cất công đi tìm phòng thi của chú. Khi thấy chú ngồi, ông ngang nhiên vào rỉ tai ông thầy đang hỏi vấn đáp. Và ông này đã đánh rớt. Sau này cả ông thầy đánh rớt và chú em tôi bị nhốt chung trong tù cải tạo của cộng sản. Hai người chung một đội. Khi chú em tôi được thả, tôi hỏi có nhắc lại chuyện xưa không, chú lắc đầu. Khi đó cùng chung cảnh tù tội, làm khổ thêm nhau làm chi. Hai ông này hồi đó đều là giáo sư trẻ khá nghênh ngang. Họ coi trời bằng vung bỏ quên lương tâm nhà giáo. Năm thi Tú Tài II, tôi gặp một ông giáo sư cũng cùng băng trẻ nhưng dạy Anh văn. Năm đó ông hỏi vấn đáp 13 thí sinh. Tôi trả lời câu hỏi theo những gì được học trong chương trình lớp Đệ Nhất C. Ông dè bỉu cho đó chỉ là những kiến thức căn bản, ông muốn câu trả lời sâu hơn. Chương trình học không dậy, lấy đâu kiến thức sâu hơn. Ông tặng tôi con số 3 điểm, điểm loại. Năm đó tôi rớt vấn đáp. Không chỉ tôi dẵm vỏ chuối, tất cả 13 thí sinh gặp ông đều nhận số điểm loại 3/20. Khóa thi thứ hai năm đó, ông bị cấm chấm thi. Sau này, khi Hội Cựu Học Sinh Chu Văn An tại Montreal tổ chức họp mặt, có quầy sách mà các Giáo sư và cựu học sinh là tác giả, ông có vài cuốn sách dịch và ngồi ký sách cạnh tôi. Dĩ nhiên ông không nhận ra tôi nhưng tôi sao quên được ông. Tôi cũng chẳng nhắc chuyện xưa làm chi. Cùng tha hương, vui chi mà làm buồn lòng nhau.

Các ông giáo sư trẻ ngày đó mà tôi kể trên đã ngông nghênh không kể chi tới đám học sinh chúng tôi. Không biết sau này các ông ấy có lúc nào nghĩ lại chuyện ác đức các ông làm khi thời của các ông đang thịnh. Họ đùa giỡn trên công sức học tập ngày đêm đến võ vàng của học sinh. Họ hủy hoại tương lai của học sinh khi chúng tôi phải cắm đầu học dưới đôi mắt săm soi của ông Bùi Đình Đạm. Đại Tá Bùi Đình Đạm, sau này lên tướng, là Giám Đốc Nha Động Viên. Nếu thi rớt sẽ nhận được giấy mời của ông tướng này ngay. Chưa có tấm bằng Tú Tài I trong tay sẽ được nhập trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế để ra Trung sĩ. Đây là một đau xót thành thơ. “Rớt Tú Tài anh đi Trung Sĩ / Em ở nhà lấy Mỹ nuôi con / Mai sau xong chuyện nước non / Khi về anh có Mỹ con anh bồng”. Trong bản nhạc “Thà Như Giọt Mưa”, Phạm Duy phổ thơ Nguyễn Tất Nhiên cũng não nùng không kém khi rớt Tú Tài: “Ta hỏng Tú Tài / Ta hụt tình yêu / Thi hỏng mất rồi / Ta đợi ngày đi / Đau lòng ta muốn khóc / Đau lòng ta muốn khóc”. Bài thơ cùng tên của Nguyễn Tất Nhiên không có đoạn bi ai này. Phạm Duy đã thêm vào khi phổ nhạc.

Đất nước đang trong tình trạng chiến tranh, chuyện tòng quân là chuyện của mọi thanh niên. Tuy nhiên nhà cầm quyền vẫn phải duy trì sự phát triển của quốc gia. Thế hệ chúng tôi ngày đó cắm đầu học không phải để trốn tránh việc mặc áo ka ki nhưng với kiến thức thu thập được, chúng tôi sẽ phục vụ hữu hiệu hơn. Những người có bằng cấp, trở thành những chuyên viên, trước sau cũng khoác áo lính, nhất là khi có lệnh tổng động viên sau trận tổng công kích của Việt cộng vào dịp Tết Mậu Thân. Sau thời gian huấn luyện ở quân trường, giáo sư và chuyên viên được biệt phái về nhiệm sở cũ để những con người văn võ toàn tài tiếp tục đem hết khả năng ra giúp nước.

tu tai 3

Cái bằng Tú Tài như nấc thang cần thiết để chúng tôi leo lên cho địa vị cá nhân cũng như cho sự cống hiến hữu hiệu hơn cho đất nước. Vậy mà cuộc tuyển lựa thật gian truân. Tỷ lệ đậu không nhiều. Tôi đã cố tìm kết quả các kỳ thi Tú Tài trong thời kỳ này nhưng tài liệu thu thập được chưa vừa ý. Theo Wikipedia thì năm 1964, tỷ lệ trúng tuyển Tú Tài I là 22%, Tú Tài II là 32%. Theo một tài liệu khác thì tỷ lệ đậu Tú Tài I chỉ vào khoảng 30% tới 35%. Tỷ lệ đậu Tú Tài II  khá hơn, khoảng từ 35% đến 45%. Điều này dễ hiểu vì trình độ học sinh lớp Đệ Nhị không đồng đều bằng trình độ học sinh lớp Đệ Nhất vì đã được gạn lọc trong kỳ thi Tú Tài I. Tỷ lệ đậu của học sinh trường công thường cao hơn học sinh trường tư vì học sinh trường công đã được gạn lọc khi thi vào lớp Đệ Thất. Tỷ lệ đậu nói trên là tính chung cả ba ban A, B và C trong mỗi kỳ thi. Nếu tính riêng thì tỷ lệ đậu của thí sinh ban C ít hơn nhiều.
Kết quả ban C của Hội đồng thi Sài Gòn năm tôi dự thi vào cuối thập niên 1950, chỉ có khoảng 50 Tú Tài trên khoảng 500 thí sinh. Tỷ lệ là 10%. Sáng hôm sau, các báo đăng kết quả. Tên thí sinh vượt qua vũ môn được in chữ hoa trang trọng trong một khung hoa văn được đặt tên là: “Bảng Hổ Đề Danh”.
Thi như vậy là thi loại bỏ chứ không phải là thi kiểm tra trình độ của học sinh. Có lẽ giới chức giáo dục cũng nhận thấy như vậy nên các kỳ thi được cải tổ dần. Niên khóa 1968 bỏ phần thi vấn đáp. Năm 1973 bỏ kỳ thi Tú Tài I. Năm 1974 thi Tú Tài được tổ chức theo lối thi trắc nghiệm IBM. Tỷ lệ thí sinh vượt vũ môn tăng hẳn.

Thời gian chúng tôi vác bút đi thi Tú Tài, ông nhạc sĩ Đỗ Kim Bảng ngày đó có bản “Mùa Thi” rất thấm thía. “Hôm nay: ngày thi / Bao nhiêu người đi / Xe! rộn rịp / Lớp! tràn người niềm vui vấn vương / Thi ơi là thi! / Sinh "mi" làm chi! / Bay, Nghẹn ngào / Bám, ồn ào / Buồn vui vì "mi" / Đây, bao bộ mặt cười ra nước mắt than câu: "Học tài thi phận" / Đây, bao tiếng cười đắc chí khoe rằng: "Phen này tao trượt thì ai đậu cho" / Hôm nay còn thi / Mai kia còn thi / Ôi! Đời đời khóc cùng cười hòa theo mùa thi”.

Hôm nay còn thi. Mai kia còn thi. Tính từ ngày tôi khổ sở lấy cho bằng được cái Tú Tài, tới nay đã ngót nghét bảy chục niên. Vậy mà tôi vẫn còn thi Tú Tài. Trong những cơn ác mộng!
                                                                                                
09/2025                                                                         
Website:
www.songthao.com
 

Ý kiến bạn đọc
27/09/202512:51:39
Khách
Qua bài viết này giúp chúng tôi là người hậu sinh hiểu biết nhiều về những kỳ thi Hội, thi Hương và thi Tú Tài thời trước. Xin chân thành cảm ơn Ông. Chữ Kiện được viết như vầy 揵 (có nghĩa lấy tay đỡ lên vác đi) trong chữ Tiệp捷 ( có nghĩa thắng lợi, được phần thắng và mau lẹ v.v..) cũng hao hao giống nhau, nếu không coi kỹ
thì dễ nhầm lẫn.
Hy vọng góp ý nhỏ bé này giúp Ông và quý độc giả có thể cảm nhận câu thơ của Ông Tú Xương qua gốc độ chữ Hán. Mong thay. Kính
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Dù có nao nức đợi chờ hay hững hờ thờ ơ, dù có mong mỏi hay chẳng cầu vọng thì mùa xuân vẫn hiển hiện trong đất trời, trong lòng người. Nhớ ngày xưa còn bé, như muôn vạn đứa trẻ khác trên đời này, gã cũng mong chờ, nao nức tết để được lì xì, được mặc áo mới, được đi chơi thoải mái mà không bị la, được nghỉ học và không phải học bài…
Gần nửa thế kỷ rồi, mà giờ đây, nhắc tên Nguyên, trong trí nàng hiện lên hình ảnh nhà Hường, êm đềm, thân thiết. Lệ thường, khi nàng đến, Hường lôi tuồn tuột nàng vào phòng học. Ngang qua phòng khách, “giang sơn” của bạn bè anh Hưng, nàng liến thoắng chào hỏi các anh...
Ông bóc tờ lịch cuối cùng của năm 2023. Giao thừa bước vào 2024 đã qua năm phút, ông hồi hộp chờ chuông điện thoại reo. Từ năm Canh Thìn 2000 đến nay Giáp Thìn 2024, đã hai mươi bốn năm, mỗi năm ông đều nhận được hai cuộc điện đàm từ Paris vào giao thừa tây lịch và giao thừa âm lịch...
Tôi may mắn hơn nhiều người Việt sống bên ngoài Việt nam là được sống trong một thành phố không cần biết tiếng Anh vì mọi dịch vụ đều có người Việt phục vụ đồng hương. Dịch vụ mới nhất tôi nghe được trong chiều ba mươi từ người bạn bị mất việc hôm tháng trước, anh giao hết cho dịch vụ trương bảng nhận khai thuế nhưng có làm thêm dịch vụ xin tiền thất nghiệp, nghĩa là lo khâu xin việc mỗi tuần ở những hãng xưởng khác nhau theo yêu cầu của Sở thất nghiệp TWC để được hưởng tiền thất nghiệp hàng tuần nhưng bảo đảm không ai gọi đi làm đâu mà sợ. Tiền thất nghiệp cứ chuyển vào tài khoản nhà băng người thất nghiệp mỗi tuần, không phải lo gì hết ngoài việc trả cho dịch vụ vài chục bạc. Nghe xong không biết nên vui hay buồn với cộng đồng mình vào một chiều cuối năm ở hải ngoại.
Trong buổi họp chuẩn bị cho ngày liên hoan Tết năm ấy, cô giáo trẻ sung sức là tôi, cao hứng giao cho nhóm lớp trưởng lớp phó lo phần trang trí, mua bánh kẹo, nước uống, còn tôi sẽ nấu một nồi chè bà ba và một hũ đậu phộng rang...
Kể từ năm 1558, con ông Nguyễn Kim là chúa Nguyễn Hoàng vào cai trị Thuận Hóa, gọi là Đàng Trong. Đàng Ngoài là ngoài Bắc vẫn thuộc quyền của chúa Trịnh. Họ chia đôi đất nước, lấy sông Gianh làm giới tuyến. Rồi Trịnh Nguyễn đánh nhau suốt 200 năm vẫn không phân thắng bại, con sông Gianh oan nghiệt là đề tài cho bao nhiêu đau thương, bao nhiêu than vãn...
Bà vợ của Martsa đã ra khỏi phòng với thằng bé, còn lại tôi đối mặt với Martsa, không khí trong phòng như cô đặc lại. Toàn bộ sự chú ý của tôi tập trung vào bàn tay phải, tôi nắm chặt cây dao găm. Tôi xua hết ý nghĩ trong tâm trí, chỉ còn trong đầu một ý kiến: giết Martsa để trả thù cho chàng Khampa và cha anh ta...
Đã gần đến Tết. Trời vẫn rét căm căm nhưng có lẽ mùa đông năm nay Seattle không có tuyết. Nhiều năm giờ này băng giá đã phủ kín các cành cây khẳng khiu trụi lá. Toàn cảnh như một cánh rừng bằng pha lê lóng lánh, trông đẹp như trong cảnh thần tiên, nhưng bước ra ngoài trên mặt đất giá băng lại rất nguy hiểm. Trượt té gẫy xương là chuyện thường...
Mấy ngày nay John cứ như một cái xác vô hồn, vẫn ăn uống, vẫn đi làm như mọi người nhưng John chỉ làm theo quán tính; toàn bộ mọi hoạt động và nói năng cứ như thể lập trình sẵn trong người máy chứ không hề có mộtc cảm xúc gì về việc mình làm. Đâu phải chỉ tuần này, đã lâu rồi, cái tình trạng này trong John tiếp diễn khi thì lên cao lúc xuống thấp. John thấy đời mình vô vị và vô nghĩa quá, chẳng biết sống để làm gì...
Không có đồng hồ đeo tay nên tôi chẳng biết Oanh đã vào chợ được bao lâu rồi. Con nhỏ định để tôi chết đứng ở đây. Trời đã trưa, khu chợ vắng dần. Ôm cặp, áo dài trắng đứng trước chợ giờ nầy, chướng ơi là chướng. Tôi cúi mặt, không dám nhìn ai vừa rủa thầm con nhỏ...
Có lời bái hát xưa nào đó mà tôi còn nhớ loáng thoáng trong đầu, “ngoài kia tuyết rơi đầy, sao em không đến bên tôi chiều nay…” chỉ nhớ mỗi câu ấy thôi nên ngân nga cho đỡ buồn khi mỏi mắt nhìn ra cửa sổ… ngoài kia tuyết rơi đầy. Dù sao cũng đỡ nản hơn nhìn vào chỗ làm là những hàng bàn làm việc dài im lặng, những hàng ghế ngồi có bánh xe xếp ngay ngắn; tiếng nói cười của đồng nghiệp hoà quyện vào âm thanh phát ra từ máy móc đã lui về quá khứ như một triều đại huy hoàng đã lụi tàn. Mọi thứ chưa đóng bụi thời gian đã thành phế tích của nền kinh tế đã chết trước cả chính quyền điều hành nó là thực tế nước Mỹ.
Tôi lái xe về nhà, trong lòng nặng trĩu nỗi buồn, thương cho Vi và giận chồng của Vi quá, tôi đâm xe thẳng vào garage và xồng xộc đi vào nhà, chồng tôi có lẽ vẫn đang lúi húi trong bếp nên không thấy tôi. Thay quần áo, nằm lăn trên giường, tôi nghĩ đến những lời Thu nói, nếu như tôi lấy phải một người chồng như của Vi?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.