Âm thanh là lúa ngọc

09/07/202217:37:00(Xem: 3493)
ThreeMusicians1921byPabloPicasso
Ba nhạc sĩ (1921) -- Tranh Pablo Picasso.

 

Nguyễn-hòa-Trước là nhà thơ hiếm hoi còn làm thơ xuôi ở hải ngoại (và có lẽ ở cả trong nước). Thơ anh là thơ Ngôn ngữ. Ở đây ngôn ngữ chiếm địa vị độc tôn. Tinh tuyền. Kỳ ảo. Luôn luôn mở ra những chiều kích mới mẻ lạ lùng trong tâm trí người đọc, bởi trong lúc đọc một câu thơ, bạn sẽ không tiên liệu được câu kế tiếp sẽ là gì, nói về cái gì. Thực chất, đừng đòi hỏi thơ họ Nguyễn nói về cái gì, hãy xóa tan đi mọi định hướng, định hình cho thơ, sự vật ngoài-thơ, phi-thơ đều không có giá trị, mà hãy nhận chân Cái Đẹp của nghệ thuật do nhà thơ cống hiến. (TYT)

 

1.

 

Quẳng rồi lưới rọ bảo tâm yên

lặng để sông kia ngủ thật hiền

 

2.

 

Âm thanh, như lúa ngọc, ướp thơm sương muối, đòng đòng theo gió ruộng; với 1 phiên hô hấp đan kết đất trời nhịp nhàng đã đủ tung tăng trên đường biên của tịnh hòa và bộn bã.

 

Cây-nhân-sinh là ta này, từ khi biết múa máy, là một cội xun xoe bận bịu; ngày sau ngày đâm nhánh nhóc sum suê; đông hạ xuân thu lá hết kiếp rời cành rớt xuống gom thảm lót lối cho thơ thơ bay qua đảo lại bao niên hơi hướm đã vun vê hốt ngọn,

 

thơ được sủng ái thế nào mà sáng hôm nao đã nhan nhác dị thường, ngõ thơ la cà không còn xào xạc tiếng giỡn nô,

 

mấy nhát chổi quơ quào biếng nhác tục trần là những ngón vuốt lên điệu lời loang lổ.

 

Ta vái lạy cầu đến tài quét dọn tinh tươm thiên bẩm của âm thanh, người bạn tri kỷ dịu dàng nhân ái (của thơ) ngụ cuối bãi sông ở thao tác thành thạo cuối cùng của tràng nhát nhúa cúi đầu dối giả,

 

đã an toàn sau căn nhà tranh-vá-đất cửa hở then lơi nhấp nhoáng trận đồ râu tóc cội đa làng ta vòi vĩnh được ung dung nhai nhấm tiếp hạt khoái lạc trong tâm trạng phiếm nhã lạ thường của tưởng tượng và ám thị vốn là giềng mối của trái đau nhân gian chưa được thanh thỏa tột cùng chi li,

 

ta (bạo dạn) hỏi vay mượn từ âm thanh, giả vờ ngu dại không biết rằng, âm thanh sống tự tại bằng cái-không-có-gì của chính nó; nhưng quả tình ta không hề biết: âm thanh, chính nó, dù trong thế cảnh nào, vẫn vừa là cô đơn vừa là đông đúc; vừa túng quẫn vừa dư giả; tự nó là buộc trói và giải vây; nó tự phân đôi phân tư rồi rút về dấu chấm bụi trong nhân noãn của lớp nhầy vô sinh mà chu kỳ là một lên đường và đến đích, một khởi đầu và bế mạc.

 

Âm thanh hào sảng mời ta dùng bữa tiệc đói, khai thị cho ta thứ căn cước vô định tính, rỗng huyễn, bỗng bềnh, bé tí của nó; nhưng khi nó thở, nó khóc cười, lời thở và bóng khóc cười hài nhi này loãng tan vào cõi hồng hoang, chọc nhột bọn cỏ bồ công anh co ro khép vỏ, ủi an bác hoa gạo sừng sững buồn rầu, đánh thức các nàng bướm-hạc-trắng họa-mi-mỏ-xanh ong-vàng-nghệ õng ẹo đòi ngủ nướng, kích hoạt khoắng khua khúc ao hồ đời người bèo se mạch nghẽn.

 

Âm thanh tự nó là trung trinh; nó tự nguyện rời khỏi phúc phận miên hàn kết bạn với và mang vóc dáng và tinh túy từ bàn tay nhuyễn thể và tim não hảo hoạt của khách tài tử; nó tự bộc lộ nó chính là cái màu sắc não nùng đẹp man man lãng phiêu từ bao thuở, giờ đã tìm được một minh trụ để đầu thai, đầy đặn tác tướng; nó phủ mượt lên vô vàn náo động xôn xao vô bổ trầm luân của kiếp sống: một nốt gảy thì thầm; một lách tách láu lỉnh; một than vãn trẻ trung: chúng lấp đầy một góc hộp tuổi thọ của ta cách rất dễ thương, tài hoa, và sáng tạo.

 

Ta chưa hề dám đánh cuộc với chính mình là (hãy thử) bơi trườn hoài lên một bãi cát; tắm truồng hoài trong một dòng suối; tranh luận hoài với lũ sậy non đệ nhất thảo mai; mở thênh nghe hoài một dĩa nhạc, bập bềnh hoài giữa vũng lỏng thất sắc trăm bủa nghìn vây bởi một thính phòng với vô vàn tôn giả mà tất thảy đều đang ngật ngà rượu u uất,

 

chưa bao giờ ta nghĩ sẽ có lúc tận tình hả hê đâm rễ tự tạc tượng nơi đó ăn uống nhai nuốt mãi nhúm quãng thời-không đang cảm thấy phúc lộc vì được dâng hiến cho một giọng hát thủy liễu nhưng thừa sức trèo-núi-cao băng-sông-dài kiêm ái cố tìm mang về được dăm cụm hương thu thao thiết mãi cho đời.

 

Âm thanh đã là thể, là chất; xác của nó là yêu tinh hay thần nữ, bóng của nó là ma mị hay giải thoát? (chỉ là những câu hỏi đứng ngoài lề phiền nhiễu! ôi, ta đáng hổ thẹn với chính mình!); phải bao kiếp ta mới mở được bức mật điệp này: tất cả chỉ là phép biến hóa diệu kỳ của 7 giọt thăng trầm đen trắng râu móc chập chùng; trong tuyệt cùng tê dại, ta (được đưa) trở về cõi thần thoại thánh thót ngàn năm ca dao mẹ-và-cha - những tiên lão trình diễn sử thi trác tuyệt -; âm thanh khanh khách chạy rông ngoài đường ngoài ngõ; âm thanh nấn ná ủ ê trong hang trong hốc trò chơi trốn tìm, mỗi lần vấp váp là mỗi đom đóm sao và nguyệt hợp hoan,

 

âm thanh bước tới cả những khi dừng lại; thiêm thiếp nôi hồng giữa ôm đồm sóng biếc; những tiếng khánh tiếng chuông du hành trên dây những quả bóng xốp mà chúng tạo ra (ta được công kênh vào một trải nghiệm cực kỳ gây bối rối).

 

Bí điệp lại rộn ràng bên tai: phải trống trải hồn nhiên: tất cả nhôn nháo khốn khổ cần để lại trước hang động lả không gợn lướt không chao này,

 

không hề có viên đá nào để gia công giũa mài cho thành ngọc.

 

Chỉ với hồn yêu và tâm ái, âm thanh đã vươn lên tầm dị thường.

 

3.

 

xõa nón che cao đầu bỗng trượt

ngã lành lạnh tóc hỏng sương đêm

 

– Nguyễn-hòa-Trước

(07-2022, gửi anh Trịnh Y Thư).

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ba bài thơ trên được trích từ tập sách "Không Đứng Mãi Trong Tranh" của Lê Chiều Giang, sách gồm những bài tùy bút ngắn tác giả viết "Mà như vẽ lại... không hề tẩy xóa, chẳng tô vẽ thêm..." và những bài thơ "hiện thực đầy ẩn dụ". "Không Đứng Mãi Trong Tranh" của Lê Chiều Giang là cuốn sách đầu tay và duy nhất được tác giả gởi tặng đến những người bạn của Nghiêu Đề và bạn Cô, với lời Nguyễn Thị Thụy Vũ viết thay đề tựa: "Chúng tôi sẽ đọc Lê Chiều Giang, những giòng chữ chảy lui về quá khứ. Một quá khứ không thể nào không nhắc tới, nhớ tới... Những quá khứ của thời đã "Chết đi, sống lại." Đọc Lê Chiều Giang là đứng lùi lại, ngắm nhìn những bức tranh vẽ lại kỷ niệm, bạn bè, tình yêu, những điều rất xa xưa, bằng cặp mắt của hiện tại, bức tranh của những tháng ngày cũ ẩn hiện bằng cảm xúc riêng của tác giả, nhưng rất chung như chính trăn trở của bạn bè, thế giới, thời đại của Cô. Đọc thơ Lê Chiều Giang, là để ngọn khói trong lòng mình bay lên, là "Mổ trái tim.
Thơ ba dòng là một thứ “hố đen” trong vũ trụ thơ. Đó là thứ “thơ còn lại” sau khi thiêu rụi những rườm rà, những quy cách, những lối mòn của những đường lối thơ đã trở nên chán ngắt mà, trong đó, nổi bật nhất, là sự mượt mà du dương của chủ nghĩa lãng mạn. Thơ ba dòng, do đó, là thơ để nghĩ hơn là để ngân nga như những nhạc điệu êm tai và, trong tương tác với người đọc, như là một thứ thơ đã nén chặt, nó sẽ bùng nổ theo những liên tưởng và suy tưởng không ngờ.
Thanh âm một cõi Sa Bà / Ba ngàn thế giới cũng là tại tâm / Nước non chung một cung trầm / Máu sa lệ sót những lầm than đau
Mối tình đầu đã giết dì tôi / như người ta giết bông hoa / cắm lên bàn thờ / héo hon tháng ngày còn lại. / Dì tôi yêu thích và buồn theo tiếng hát / “Đồi Thông Hai Mộ” / Như thể mối tình trong ca khúc này / là tâm sự của dì tôi.
nguyên thủy là kêu gọi trở về / nơi cánh đồng của những trong lành tươi mát / chưa nảy sinh những dị biệt / chân đi trên phù sa / ướt những tấm lòng xanh ngát bao la
một ngày trôi giạt theo sóng vào bờ / một ngày quấn quýt từng bước chân trần / tuổi trẻ bềnh bồng không định hướng / một ngày câm nín xao động ôm trái tim mình / bay cao ngang ngửa trên ngọn cây mộc lan / trập trùng những nụ búp xanh tươi mơn mởn
Tập thơ thứ 11: “Đời Sống Làng Quê” ấn hành năm 2009. Được xem như một khúc quanh trong sự nghiệp thi ca của Louise Gluck. Khác hẳn với tập “Hoa Diên Vĩ Hoang Dại”, 1992, với nội dung siêu hình và siêu nhiên, đã tạo cho bà nhiều danh vọng. 1. “A Village Life” mang đến cho độc giả những cảm xúc thâm trầm về tâm sinh lý của cá nhân và xã hội. Một loại xã hội thực tế, dùng lám ẩn dụ, tuy hiện diện nhưng gần như bị lãng quên bởi đời sống phố thị rộn ràng nhốn nháo. Những mẫu chuyện ngắn thật ngắn, nhỏ thật nhỏ, đôi khi phức tạp, ly kỳ. Đa số bình thường với những nhận xét tinh tế:
Đàn ông biết được phụ nữ bao nhiêu? Tôi dùng chữ “biết”, không phải ý chữ “hiểu”. Tôi không dùng chữ “đàn bà” vì e rằng thiếu kính trọng. Tôi lấy vợ đã gần nửa thế kỷ. Đã bắt tay, chào hỏi vài ngàn phụ nữ và nhìn ngắm họ qua trăm ngàn vóc dáng khi du hành nhiều nơi trên thế giới, nếu tính luôn trên truyền hình, qua video, con số có thể lên hàng triệu. Nói như vậy, bạn đọc có thể lầm tưởng tôi là người có bản lãnh biết về phụ nữ, thực tế, như Louis de Bernières đã nói: “Đường lối phụ nữ chinh phục trái tim đàn ông là khiến cho anh ta tưởng bở đang làm cô thích thú.” (“That's how a woman wins a man heart, by making him think that he amuses her.)
điều nguyên vẹn nhất / vẫn nằm im trong tim / ngày mùa thu nhớ dòng sông / nấm đất buồn tênh bên lở bên bồi / quăng viên sỏi trắng cạnh chiếc cầu run rẩy / bàn tay nào níu giữ / bạn bè và tình nhân / ngẩn ngơ năm ba lời tiếc nuối / con chim non hót mấy tiếng cội nguồn
Thế giới giờ này người né người! / Ngồi trên xe bus gắn máy lạnh, hoặc xe bò cọc cạch lăn bánh, / người ngồi xa người, khoảng cách an toàn, một thước rưỡi. / Anh xa tôi! Tôi xa em! Ta xa nhau! Đúng 2 thước. / Giờ này đôi ta hôn nhau nụ hôn gió qua khẩu trang! / Ai đó lỡ miệng ách-xì một, hoặc hai tiếng, hoặc một tràng; / Hết rồi những ánh mắt ái ngại, / những lời nói cảm thông, “God bless,” hoặc “Trời, Phật, Chúa chữa!”