Tiếc

12/06/202416:10:00(Xem: 2903)
20201011_141559
Tranh Ann Phong

 

tôi trở lại công viên

chiếc ghế trống thờ ơ như chưa từng gặp

người đàn ông tóc rậm

dáng thiểu não của thuyền sắp đắm

ngồi đó hôm qua

 

tiếc anh đã không nghiêng đầu

phía bên kia những người đàn bà khăn trùm kín tóc

niềm vui bất động lan vào đàn con đang rượt đuổi nhau, đang nhảy múa nắng chiều

 

tiếc anh đã không ngước mắt. trên cao

những ngọn thông rướn mình. toà nhà cao tầng có thể hung hãn đến

nhưng cũng có thể màu xanh chạm đỉnh núi một ngày

 

tiếc biển không rộng lượng với mọi con thuyền

phụ nữ trẻ thơ dồn vô mồ cùng khủng bố

nhưng cỡi ngọn sóng khi còn hơi thở

bạn tôi hụp lặn nước Mã Lai ngày đó

hôm nay ngồi uống trà kể chuyện cũ cười vang

 

tiếc tôi đã không mang theo

chiếc còi gọi cấp cứu khi đi nơi có ít nhiều bất trắc

Titanic dù đã đắm

những người bơi thuyền vẫn lắng nghe yếu ớt tiếng còi

 

tiếc tôi đã không đủ lòng tin

ngồi xuống băng ghế chỉ để trong một thoáng anh lưỡng lự

không biết nên đi tìm một góc vắng và ôm ghì tuyệt vọng

một mình. cô đơn. cô độc

hay nhìn tôi và đọc được chút tình người

 

kc Nguyễn

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
thượng đế thì xa mà cái ác thì gần ̶ ̶ ̶ / vô vàn cuộc sống bỗng chốc đổi thay mãi mãi / những vấn nạn của bạn và tôi trở nên vô nghĩa...
Chiến tranh và ngục tù là bi kịch đau thương nhất trong lịch sử loài người, nó là kinh nghiệm không được rút tỉa để học hỏi và ngăn chặn, cứ thế lặp đi lặp lại khắp nơi trên thế giới, đánh động mãi ký ức con người nên có thể nói rằng không có cuộc chiến và nhà tù nào trở thành quá khứ, nó luôn là hiện tại với dấu lệ và máu không ngừng chảy. Kinh nghiệm chiến tranh, nhà tù, cùng hệ lụy tang thương của nó như vết cắt hằn sâu trong tâm tư tình cảm con dân Việt nam, mà nhà văn Ngô Thế Vinh đã gọi - vết thương không bao giờ lành-, nó sừng sững ở đó, trên đất đá, trên thân thể, trong tâm hồn, trong sử lịch, mà trái tim và lương tâm con người mãi thúc thủ một câu trả lời.
Cậu bé Hassan 11 tuổi ở miền Đông Ukraine vừa bằng tuổi của Oliver cũng 11 tuổi ở miền Tây Bắc Mỹ
Ôi những bà mẹ mất con/ những người vợ mất chồng/ những người yêu nhau/ đã mất nhau...
buổi chiều/ ở khúc quanh của dòng sông/ có con cò xám khẳng khiu/ cô đơn như con nước lạnh/ nhìn về xa xăm...
Nhìn vào các con số. Vào khởi đầu thập niên 1930s, có 259 nhà văn xuất bản sách trong Liên Bang Xô Viết. Vào cuối thập niên 1930s – chỉ còn 36. Như thế nào 80% các nhà văn đã biến mất? Có 17 người bị bắn, 8 người tự sát, 7 người chết vì lý do tự nhiên, và 175 người bị bắt và giam trong các trại. Và 16 người mất tích. Những con số này cho một ý tưởng về trái độ Liên Bang Xô Viết đối với giới ưu tú văn hóa Ukraine, một thái độ đã áp đặt một kiểu im lặng văn hóa trong nhiều thập niên. Trong thập niên 1960s, một thế hệ mới, trẻ hơn xuất hiện và mang khu vực vào một thời kỳ nghệ thuật chói sáng mới. Nhưng nó cũng sớm lụi tàn: nhà thơ Vasyl Symonenko bị đánh tới chết, họa sĩ Alla Horska và nhà soạn nhạc Volodymyr Ivasiuk chết trong các hoàn cảnh kỳ lạ, và nhiều người khác bị đẩy vào nhà tù, ép vào các bệnh viện tâm thần, và bị cấm xuất bản. Chết độ Xô Viết khởi dậy cuộc chiến chính trị nhắm vào các khuôn mặt văn học Ukraine trong thập niên 1920s và kéo dài tới cuối thập niên 1980s,
bánh mì chúng con ăn hằng ngày chúng con cho người đói / để họ ngừng ăn thịt lẫn nhau / chúng con đem ánh sáng cho kẻ u mê / để họ tìm ra sự sáng suốt /
đêm của pháo kích/ đêm của oanh kích/ đêm của kính vỡ/ đêm của tường lở/ đêm của gạch vụn...
tiếng còi hụ xé nát màn đêm/ đạn pháo nả vào thành phố/ bầu trời rực sáng/ bằng lửa của bạo tàn...
Cảm xúc và nỗi phẫn nộ của hai thi sĩ Việt – Nguyễn Hàn Chung & Trần Mộng Tú – khi nhìn vào thảm cảnh chiến tranh Ukraine hôm nay. Việt Báo trân trọng mời đọc.