Chuyển động

15/08/202411:18:00(Xem: 1682)
Leonora
Tranh: Leonora CARRINGTON
"Lord Candlestick's horses" (1938)

Nếu em là con ngựa màu hổ phách
Anh là con đường máu
Nếu em là bông tuyết đầu mùa
Anh là người thắp sáng lửa bình minh
Nếu em là tòa tháp của đêm
Anh là mũi giáo bùng cháy trong tâm trí
Nếu em là thủy triều buổi sáng
Anh là tiếng kêu của con chim mới nở
Nếu em là giỏ cam
Anh là con dao mặt trời
Nếu em là bàn thờ đá
Anh là bàn tay phạm thánh
Nếu em là trái đất nằm yên
Anh là cây sậy xanh
Nếu em là bước nhảy của gió
Anh là ngọn lửa bị chôn vùi
Nếu em là miệng nước
Anh là miệng rêu
Nếu em là rừng mây
Anh là chiếc rìu xẻ chặt
Nếu em là thành phố bị ô uế
Anh là cơn mưa thánh hiến
Nếu em là ngọn núi màu vàng
Anh là cánh tay đỏ địa y
Nếu em là mặt trời mọc
Anh là con đường máu


Nguồn: Nguyễn Man Nhiên dịch từ nguyên tác Tây Ban Nha bài thơ "Movimiento” của Octavio Paz trong tập Salamandra (1958-1961), có tham khảo bản dịch tiếng Anh “Motion" của Eliot Weinberger.

***

Bài thơ "Movimiento” (Chuyển động) của Octavio Paz là sự nghiên cứu các mặt đối lập, tạo nên cảm giác chuyển động, đồng thời cũng truyền tải những phức tạp của cuộc sống. Bài thơ đậm chất trữ tình nhưng cũng chói tai, là một chuỗi các dòng dường như đối lập trực tiếp với nhau. Mở đầu là: "Nếu em là con ngựa màu hổ phách / Anh là con đường máu". Dòng đầu tiên gợi đến thế giới tự nhiên và sự thanh bình, trong khi dòng thứ hai gợi ý đến bạo lực và đấu tranh, và đây là hai thái cực đối lập nhau, nhưng chúng mô tả sự phức tạp của cuộc sống, có thể yên tĩnh và thanh bình trong một phút, nhưng lại bạo lực và đầy xung đột vào phút tiếp theo. Chủ đề này tiếp tục xuyên suốt bài thơ, truyền tải sự chuyển động với những dòng đối lập. Các dòng thơ hỗ trợ lẫn nhau, nhưng chúng mang lại một chuyển động trôi chảy đưa bài thơ từ dòng đầu tiên đến dòng cuối cùng, và kết thúc bài thơ trở lại nơi nó bắt đầu, tạo ra ảo giác về chuyển động với một vòng tròn đầy đủ khép lại ở cuối.

Nhiều hình ảnh mang tính bạo lực và hơi phản cảm. Chẳng hạn: “Nếu em là rừng mây / Anh là chiếc rìu xẻ chặt”. Mỗi hình ảnh này hoàn toàn có thể đảo ngược, do đó các dòng gần như là hình ảnh phản chiếu của chính chúng, di chuyển theo hướng lên hoặc xuống theo chiều dài của bài thơ. Octavio Paz dường như muốn nói rằng con người có thể là hình ảnh phản chiếu của nhau, với mặt "tốt" và mặt "xấu", giống như bài thơ tạo ra sự đối lập và xem xét sự phức tạp của cuộc sống. Mỗi người luôn có hai mặt, mỗi câu chuyện đều có hai mặt, cuộc đời có hai mặt, một mặt bình yên và bên kia đầy xung đột. Bài thơ thể hiện tính hai mặt tồn tại trong mọi sự vật và cho thấy rằng chúng có thể hòa trộn để tạo ra thứ gì đó phức tạp và hứng khởi cùng một lúc. Điều này tạo ra một cái nhìn sâu sắc khiến bài thơ trở nên khác biệt: sự phức tạp và mối quan hệ của các đường nét cũng như cách thức tác giả đưa bài thơ về phía trước.

Octavio Paz (1914-1998) là một nhà thơ, nhà văn và nhà ngoại giao người Mexico, được công nhận là một trong những nhà văn Mỹ Latinh lớn của thế kỷ 20. Ông nhận giải Nobel Văn học năm 1990.

Gia đình của Octavio Paz bị ảnh hưởng bởi Nội chiến Mexico, và ông lớn lên trong hoàn cảnh khó khăn. Ông được học tại một trường Công giáo La Mã và tại Đại học Mexico. Octavio Paz xuất bản tập thơ đầu tay của mình, Luna silvestre vào năm 1933, ở tuổi 19. Năm 1937, nhà thơ trẻ đến thăm Tây Ban Nha. Suy nghĩ của ông về trải nghiệm đó, tập Bajo tu clara sombra y otros poemas được xuất bản vào năm 1937, cho thấy ông là một nhà văn thực sự có triển vọng. Trước khi trở về nhà, Paz đã đến thăm Paris, nơi Chủ nghĩa Siêu thực và những người theo nó đã gây ảnh hưởng sâu sắc đến ông.
Trở lại Mexico, Paz thành lập và biên tập một số tập san phê bình văn học quan trọng, bao gồm Taller từ năm 1938 đến năm 1941 và El hijo pródigo, do ông đồng sáng lập vào năm 1943. Các ấn phẩm thơ lớn của ông bao gồm No pasaran! (1937), Libertad bajo palabra (1949); Águila o sol? (1951), và Piedra de sol (1957). Cùng thời gian đó, Paz đã ra mắt các tập tiểu luận và phê bình văn xuôi, bao gồm El laberinto de la soledad (1950), một bài tiểu luận có ảnh hưởng trong đó ông phân tích tính cách, lịch sử và văn hóa của Mexico; El arco y la lira (1956) và Las peras del olmo (1957) là những nghiên cứu về thơ Mỹ-Tây Ban Nha đương đại.

Paz gia nhập cơ quan ngoại giao của Mexico vào năm 1945, sau khi sống hai năm ở San Francisco và New York , đồng thời đảm nhiệm nhiều nhiệm vụ khác nhau, trong đó có một lần là đại sứ Mexico tại Ấn Độ từ năm 1962 đến năm 1968. Vào năm sau, ông từ chức để phản đối việc Mexico đối xử tàn bạo với những sinh viên cấp tiến. Từ năm 1971 đến năm 1976 Paz biên tập Plural, và năm 1976, ông thành lập Vuelta, tiếp tục được xuất bản cho đến khi ông qua đời vào năm 1998; cả hai đều là những tập san phê bình về văn học và chính trị.

Thơ của Octavio Paz sau năm 1962 gồm có Blanco (1967), chịu ảnh hưởng từ thơ của Stéphane Mallarmé và lý thuyết về âm nhạc của John Cage ; Ladera este (1971), chứa đựng sự hiểu biết sâu sắc của Paz về thần thoại Đông Ấn; Hijos del aire (1979), các chuỗi sonnet do Paz và nhà thơ Charles Tomlinson tạo ra dựa trên lời thoại của nhau; và Árbol adentro (1987), trong đó nhiều bài thơ dựa trên tác phẩm của các nghệ sĩ như Marcel Duchamp và Robert Rauschenberg . Một tuyển tập bằng tiếng Anh, The Collected Poems of Octavio Paz, 1957–1987, được xuất bản năm 1987.
Các tác phẩm văn xuôi sau này của Paz, một số nguyên bản bằng tiếng Anh, bao gồm Conjunciones y disunciones (1969), một cuộc thảo luận về thái độ văn hóa của thế giới; El mono gramático (1974), một bài thiền về ngôn ngữ; và Tiempo nublado (1983), một nghiên cứu về chính trị quốc tế nhấn mạnh vào mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Châu Mỹ Latinh.

Paz lần lượt chịu ảnh hưởng chủ nghĩa Marx, chủ nghĩa Siêu thực, chủ nghĩa Hiện sinh, Phật giáo và Ấn Độ giáo. Trong thơ ở tuổi trưởng thành, ông đã sử dụng dòng hình ảnh siêu thực phong phú để giải quyết các câu hỏi siêu hình. Paz đã khám phá các lĩnh vực văn hóa hiện đại và chủ đề nổi bật nhất của ông là khả năng con người vượt qua nỗi cô đơn hiện sinh thông qua tình yêu và khả năng sáng tạo nghệ thuật.

Ngoài giải Nobel, Paz còn nhận được nhiều giải thưởng khác, trong đó có Cervantes - giải thưởng danh giá nhất dành cho tiếng Tây Ban Nha. Toàn tập tác phẩm của Octavio Paz, Obras completas de Octavio Paz, gồm 15 tập được xuất bản từ năm 1994 đến năm 2004. The Poems of Octavio Paz (2012) là một tuyển tập các bài thơ được dịch sang tiếng Anh trong suốt sự nghiệp của ông.
...

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
LTS - Tại Lễ Đăng Quang của Tân Tổng Thống Biden hôm qua ngày 20 tháng 1, 2021, một hình ảnh tươi sáng gây xúc động và được nhắc đến và khen ngợi, được “shared” nhiều nhất trên các trang mạng xã hội là đoạn nhà thơ trẻ Amanda Gorman, 22 tuổi, từ Los Angeles bước lên đọc bài thơ do chính mình sáng tác. Amanda là nhà thơ trẻ nhất, và là thơ thứ năm đọc thơ trong Lễ Đăng Quang Tổng Thống, nối gót 1. Robert Frost (Lễ Đăng Quang của TT John F. Kennedy, 1961), 2. Maya Angelou (Lễ Đăng Quan của TT Bill Clinton, 1993), 3. Miller Williams (Lễ Đăng Quan của TT Bill Clinton, 1997), 4. Elizabeth Alexander (Lễ Đăng Quan của TT Barack Obama, 2009). Việt Báo mời độc giả đọc “Ngọn Đồi Chúng Ta Leo”, bản Việt ngữ của nhà thơ/dịch giả Lưu Diệu Vân.
Này, ông Đào Tiềm, / lâu quá rồi, / từ lúc chia tay ở Việt Nam. / Ông sang Mỹ hồi nào? / Đêm qua, / từ chồng sách cũ chui ra, / nhìn thấy ông / tôi vô cùng hổ thẹn. / Bốn mươi tuổi ông đã đi về. / Bảy mươi tuổi tôi vẫn còn nấn ná. / Trách nhiệm / không phải của mình mà dây dưa. / Nợ nần / không phải của riêng mà ráng trả. / Ông tìm đến Suối Hoa Đào. / “Từ người già tóc bạc, / tới trẻ để trái đào, / đều hớn hở vui vẻ.” (**)
Ngồi nhìn nhau, khôn xiết biệt ly / Lắng nghe gió hát, giọng thầm thì: / Đời chớp tắt, người đi kẻ ở / Mấy mùa ly loạn, đỏ phong thi / Đỏ phong thi, khóc lá chiên đàn / Vườn xưa lót ổ, tiếng chim tràn / Hồn ai đó, sương tan ngoài ngõ / Bông dại ướt chiều, mây tím than Mây tím than, bóng mộ tím bầm Ma quen ma lạ, miểu sầu câm Ngơ ngác đau, rồi ngơ ngác hỏi Rưng rưng cát bụi, nắng thương thầm
Khi viên đạn đã bắn ra,/ đừng hy vọng lấy lại, / đừng thất vọng / nếu không trúng đích. Nếu cây súng / có trí não, có tâm tư, / lời nói là viên đạn / gây thương tích. Người là một loại súng liên thanh. / Khạc đạn từ lúc thức dậy / cho đến tận chiêm bao. / Bắn nhiều hơn suy nghĩ./ Bắn kẻ địch. / Bắn luôn đồng minh. / Khi lời đã nói ra, / đừng thất vọng / nếu không có hiệu quả, / đừng hy vọng sẽ thay đổi ý nghĩa. Những người hiếm quí tự bắn mình, / nhiều hơn bắn người khác. / Ai có đánh máu, / mới hiểu máu khóc. / Người tự bắn mình, / phải tập mọc nhiều trái tim / khắp thân thể. /
dù gì rồi cũng phải đi vào lòng đêm những bờ môi và ngón tay trò chuyện / luôn khởi đầu bằng lời nói / vinh danh tình yêu đủ mọi hình dáng / những ngôi sao rơi xuống từ bầu trời / sáng trên tay những người đàn ông và đàn bà / bốn mùa thu đông xuân hạ
Sống có dơ hay không do trong lòng. Lòng lúc nào chẳng dơ, vì vậy, lòng đâu có mặc quần áo.
Chừng này tuổi, con mới hiểu, vì sao mẹ nhẫn nhục, cha thường mỉm cười. Thuở xưa, anh em làm tay chân trìu mến nâng đỡ. Thời nay, anh em vẫn tay chân, nhưng tay cào chân, chân đá tay.
tôi thấy mẹ tôi bay từ tầng cao và bà nhẩn nha la đà không muốn chạm mặt đất. những ngày cuối năm mẹ xúng xính trong áo ấm và khăn quàng cổ. mẹ vẫy tay tôi như mọi khi và cũng như mọi khi tôi cất tiếng gọi mẹ. tôi nghĩ mẹ nghe tôi vì sau bao năm tôi vẫn ở trong quỹ đạo mẹ vẫn còn thấy mẹ lướt thướt vẫy tay từ tầng cao vào những ngày cuối năm.
Vắng vẻ công viên đìu hiu quán xá / Những con đường rưng rức gọi nhau / Chờ tiếng chân đi. Như bờ đê chực vỡ / Có tiếng nhạc về rung hoa hè phố / Ai một mình đứng hát thánh ca / Trước giáo đường im lìm khép cửa*
Nhánh mặt trời hừng đỏ / Lung linh trên cánh hoa / Hai ta trên cánh hoa / Mà chẳng hề thấy mặt