Hôm nay,  

Cuộc Gặp Gỡ Đong Đầy Hy Vọng

29/04/202011:25:00(Xem: 4997)

(Nhận định về tác phẩm The Sympathizer của Viet Thanh Nguyen)
(Ghi dấu tháng 4 đen lần thứ 45.)

Trong những ngày nhàn rỗi cuả tháng 4, vô tình được đọc tác phẩm The Sympathizer (Grove Press New York, 2015) của Viet Thanh Nguyen (sinh năm 1971 tại Ban Mê Thuột), với bản dịch Việt Ngữ của Lê Tùng Châu (23 chương 434 trang), tôi hoàn toàn bị cuốn hút và ngỡ ngàng trước một tiểu thuyết lấy bối cảnh về chiến tranh Viet Nam, nhưng toàn truyện như một bản hòa tấu đủ cung bậc thăng trầm, với nhiều đoạn trường canh vừa có triết tính và thơ mộng, vừa có ý nghĩa sâu sắc và mang tính gợi hướng của thời đại. Chính Viet Thanh Nguyen, một nhà văn người Mỹ gốc Việt đã đánh bại bao nhiêu tác phẩm khác trên đấu trường văn chương và được hội đồng chấm giải Pulitzer vinh danh, trao giải năm 2016...


Tóm Lược Cốt Truyện:

Nhân vật "Tôi" trưởng thành trong thời đoạn đen tối nghiệt ngã của cuộc chiến Quốc - Cộng, với vai trò là kẻ nằm vùng cho phe Cộng sản, "Tôi" trà trộn vào hàng ngũ của ông Tướng (bên Quốc Gia) với vỏ bọc là một Đại Úy Cảnh Sát Quốc Gia, nhưng cung cấp mọi tin mật thu được và báo cáo về cho cấp trên là "Man" (bên Cộng sản). Câu chuyện xoay quanh 3 nhân vật chính từ thuở ấu thơ và đã cắt máu ăn thề kết nghĩa tình huynh đệ là "Tôi", "Man" và "Bon", như đại diện cho 3 kiểu người điển hình của đất nước, mà trong đó "Tôi" người luôn suy nghĩ nhiều chiều, gom góp, thu nhặt nhưng là để nhìn thấu bản ngã của anh để thành nhất thể có chính kiến; "Man" người Cộng sản có tư tưởng và hành động thuấm nhuần chủ nghĩa Marxist, luôn khao khát "giải phóng" miền Nam với hy vọng dựng xây đất nước thành thiên đường Cộng sản; "Bon" người biệt kích của quân đội miền Nam, đau đớn căm phẫn khi quân Cộng sản tàn ác dấy lên chiến tranh nơi quê hương anh, vợ và con anh đã tử nạn trên đường vượt thoát khỏi Sài Gòn vào ngày thất thủ. Tuy đại diện 3 tuýp người khác nhau nhưng có vẻ đều chung phần cố gìn giữ nhân tính thẳm sâu trong lòng, dẫu con tàu định mệnh lịch sử đã dằn nát tàn khốc xác thân, tâm hồn họ. Họ không còn "nhà" nữa, họ phải trốn chạy ("Tôi" và "Bon")
Sau đó "Tôi" và "Bon" cùng tị nạn trên đất Mỹ mà khổ sở nhớ thương quê hương, luôn mong chờ sẽ có ngày về. Trong khi "Man" ở lại chứng kiến phút giây chuyển đổi nghiệt ngã của lịch sử. Cả ba đều mang từng nhiệm vụ riêng biệt. "Tôi" vẫn tiếp tục cung cấp thông tin tình báo cho phía Man và Cộng sản về nhất cử nhất động nội tình của ông Tướng và đoàn phục quốc quân (trong đó có Bon) với kế hoạch quay trở về xâm nhập nội địa.
Chuyến "Tôi" và "Bon" từ căn cứ ở Thái Lan băng rừng xâm nhập Việt Nam thì cả hai bị lọt ổ phục kích (do "Tôi" mật báo) và bị bắt. Sau đó, "Tôi" và "Bon" bị đưa vào trại tù cải tạo. Tại đây "Man" là Chính trị viên - trại trưởng trại cải tạo này, có quyền sinh sát mọi tù nhân.

Viet Thanh Nguyen đã tạo nút thắt đỉnh điểm cao trào đầy xung đột kịch liệt cho câu chuyện đến đây là 21 chương. Cả "Man" và "Tôi" đều nhận ra rằng họ đã bị nhầm khi dấn thân, hy sinh tuổi trẻ mình cho “cách mạng”: Lý tưởng Cộng sản chỉ là chiếc bánh vẽ dối trá, miền Bắc Cộng sản sau khi thôn tính miền Nam quốc gia, đã không hề giải phóng cho ai cả mà còn dùng bạo lực tước đoạt tự do của toàn thể dân chúng. Thế là Man và “Tôi” cùng phối hợp diễn vài màn kịch tính do "Man" dựng ra để cứu sống "Bon" và "Tôi" ra khỏi trại tù cải tạo và đưa cả hai vượt biên bằng thuyền chạy thoát khỏi đất nước. Tại đây, Tác giả đã xây dựng thành công một lối mở cho nút thắt của câu chuyện.

Thế nhưng, thật ngang trái ở chỗ ngay từ đầu cả đến cuối truyện, "Bon" là người không hề biết sự thật về "Man" là Cộng sản, về “Tôi” là Việt cộng nằm vùng, cũng như không hề biết mối quan hệ đồng chí giữa "Tôi" và "Man". Thậm chí khi bị vào trại cải tạo "Bon" vẫn không biết Man là chính trị viên - trại trưởng trại tù cải tạo đó. Chớ phải chi "Bon" biết chân tướng nằm vùng của hai người anh em kết nghĩa của mình, anh ấy sẽ giết họ ngay lập tức chăng vì lập trường bất biến của Bon là không chấp nhận Cộng sản?
Rồi đây, Số phận "Man" như thế nào không ai biết.
Xin mời quý độc giả đọc tác phẩm sẽ rõ.


Tác Phẩm Trong Mắt Tôi:

Tuyệt tác thâm thúy The Sympathizer của tác giả Viet Thanh Nguyen (qua bản dịch Việt ngữ của Lê Tùng Châu) mở đường cho độc giả hiểu những kiến thức Sử nội chiến Quốc Cộng 20 năm, chính trị, văn hóa và kiến thức Đông - Tây, văn chương, nghệ thuật, âm nhạc, triết học, giáo dục, cách mạng tình dục (ở Mỹ và phương Tây)...

Nhưng cốt lõi hơn cả đây là bản cáo trạng trần trụi khiến người đọc suy tư vì đâu chiến tranh Viet Nam tang thương, quê hương điêu linh? Phải chăng các bên cường quốc thế giới nhảy vào đất nước chúng ta vì tranh dành một miếng mồi béo bở. Phải chăng họ dành quyền đại diện thay tiếng nói của dân ta mà cuộc chiến ấy do Quốc tế Cộng sản và Tư bản gây nên. Phải chăng Miền Bắc "giải phóng" miền Nam chỉ vì ý thức hệ và tham vọng quyền lực. Phải chăng những kẻ rêu rao danh nghĩa cách mạng đấu tranh giành độc lập tự do lại tước đoạt tự do của người khác?
Bởi đâu mà những giá trị văn hóa, giáo dục, đạo đức, nhân bản bị suy đồi, đạp đổ tàn nhẫn ngay tại thiên đường XHCN mục ruỗng ngày hôm nay. Biết bao mạng người đã ngã xuống trong quá khứ lẫn tiếp diễn đến hiện tại cách vô nghĩa để đổi lại một xã hội đói nghèo, tối tăm, tha hóa, không tương lai. Những thuyền nhân cố tìm đường chạy trốn Cộng sản từ ngày "hòa bình" đến trên quê hương? chiến tranh Việt Nam ta đâu đã kết thúc?

Viet Thanh Nguyen đã dùng thuật sáng tác độc đáo vô cùng mà chỉ khi đọc trọn tác phẩm, người ta mới nhận ra toàn bộ tiểu thuyết chỉ là một bảng thú nhận / một bản kiểm điểm cay đắng của nhân vật "Tôi" - gián điệp hai mang - được viết trong xà lim biệt giam những năm tháng chịu sự tra tấn tàn bạo của chính các đồng chí Việt cộng. Mà rồi chính bảng thú nhận đó chẳng phải là một bằng chứng hữu hình, hữu hiệu hòng nỗ lực lên tiếng vạch trần những mưu đồ đen tối, biến chất, vô nhân tính của chế độ cộng sản đó sao?

Bên cạnh kiến thức uyên thâm, thuật sáng tác tài tình, cũng phải kể đến cách dụng văn và ý của Viet Thanh Nguyen. Có lúc ông dùng thủ pháp Ẩn – Hiện, Hư – Thực, dương Đông kích Tây, chỉ Tang mạ Hòe, Ý tại Ngôn ngoại, đồ đi đố lại, châm biếm, trào phúng, tự trào, ẩn dụ, phân thân, ngụy trang, đánh lạc hướng - bắt người đọc phải suy nghĩ để nhận ra (Ví dụ chương 22, đoạn đối đáp của nhân vật Tôi với 3 nhân vật Cộng sản về cái chết người cha Linh Mục của “Tôi” – với một viên đạn vào đầu???), Thuận - Nghịch thời gian, biến chuyển không gian - thủ pháp dựng phim điện ảnh này chuyển cảnh liên tục... Tất cả được kết hợp thuần thục, khéo léo để trình bày cái nhìn cũng như kết án và tố cáo, một cách bậc thầy khi viết văn.

Việc xây dựng nhân vật "Tôi" có hai tâm trí trong cùng một xác thân với diễn biến tâm lí và quá trình hoạt động hoàn toàn chặt chẽ. Viet Thanh Nguyen luôn để nhân vật của mình nhìn nhận và có chính kiến, bày tỏ cái hay - dở, đồng tình hay phản đối, thuận tiện hay bất lợi trên mọi bình diện của cuộc đời "Tôi" từ văn hóa, sinh hoạt hai miền Nam - Bắc (và cả những dị biệt 2 nền văn hóa Đông - Tây), giáo dục, quan điểm chính trị, ứng xử, nhưng phải kể đến ở "Tôi" là sự tổng hòa thấu hiểu nguyên do và nỗi đau chiến tranh Viet Nam với hai mặt của vấn đề xuyên suốt mạch truyện cách công tâm, đặc biệt phải kể đến thủ pháp phân thân trong đoạn tra khảo (chương 22) - từ nhân vật "Tôi" thành Chúng Tôi rõ nhất ở đoạn cuối (chương 23), rồi đến Chúng Tôi hòa vào Chúng Ta. Rõ ràng, đây là nhân vật chính diện luôn trong trạng thái tỉnh thức, trăn trở, suy tư và mang bao gởi gắm quan điểm, tâm tình, khai mở và hi vọng của Viet Thanh Nguyen đến với bạn đọc, rằng hãy luôn suy biết hai mặt nhị nguyên của chiến tranh Việt Nam, đừng chỉ ấu trĩ nhìn về một chiều, đừng để bị nhồi sọ bởi bánh vẽ ảo tưởng tốt lành Độc Lập, Tự Do, cái mà đã không bao giờ có ở thực trên đất nước chúng ta kể từ ngày "cách mạng " thành công, đừng để họ áp đặt, đại diện thay chúng ta bằng tiếng nói rỗng tuếch, dối trá của họ, đừng để họ cầm tù ý nghĩ của chúng ta. Đừng để họ ru ta bằng khẩu hiệu vô nghĩa. chính chúng ta phải cất lời đại diện cho vận mệnh của nước Việt mình, nếu không, chúng ta đang chết, sẽ chết đến mất dạng, chết mịt mùng, và đáng sợ hơn hết là chết trong chính việc đang sống từng ngày (và thực tế, chúng ta đã không có được tiếng nói đại diện nào cho mình. Dân tộc ta, miền Nam cũng như Bắc đâu ai chọn cái chết vô nghĩa vô ích, thế nhưng kẻ nào đã chọn cho chúng ta thế này?).

Điều gì làm ông Viet Thanh Nguyen khắc khoải đến nỗi từ một người Việt tị nạn khi mới lên bốn rồi trưởng thành ở xứ người với nhiều nét giống người Mỹ hơn người Việt, nhưng vẫn luôn đau đáu, xót xa lội ngược về cội nguồn nơi mà tâm khảm ông gắn mình liền thân với quê nhà, với hồn thiêng quốc túy, với kho tàng tiếng Mẹ. Một nhân sĩ có chí lớn công tâm, yêu quê hương tha thiết, cố đào bới kho lịch sử để đặt bút viết nên tác phẩm đầy thao thức, gợi hướng, hằng mong mỏi bạn đọc nhận ra, mà cất lên lời cho những đồng bào đang chịu ách tà ngụy, bất công trong xã hội băng hoại này và phục dựng những điều đẹp xưa cũ từng hiện diện nay đã mất đi.

Phải nói thêm rằng việc xây dựng 3 nhân vật chính: "Tôi", " Man", "Bon" như thể biểu trưng cho 3 chí nguyện, 3 khuynh hướng, 3 lập trường cho một hoàn cảnh éo le ngang trái có thực trong cuộc nội chiến Quốc – Cộng tương tàn đã được tác giả khéo léo khái quát tài tình. 3 Biểu tượng cho cuộc chiến Quốc - Cộng oan khốc đó là Miền Nam không bao giờ chấp nhận sống chung với Cộng sản, trong khi đó Miền Bắc đòi đánh chiếm miền Nam bằng mọi giá rồi biến miền Nam chìm trong máu và lửa, còn những người như "Tôi" - một phe thân với cả hai bên - đại diện cho cái rốn tâm thức của người dân Việt Nam từ hai phía, luôn muốn dung hòa. Đó là thân phận đau đớn của đất nước chúng ta, tình trạng của "Tôi" - nhân vật Đại Úy - có đầy trong các gia đình Việt Nam. Mà đó có phải chính hình ảnh người Quốc Gia đã vô cùng ngây thơ, hiền lành, thậm chí không biết mình bị lợi dụng trong cách chơi với bạn bè với anh em? bị phản bội bởi những người không đáng gọi là bạn, không phải tình bạn, tình anh em trong ánh sáng nhưng chỉ là mối quan hệ ảo ảnh, đục khoét, lén lút, nằm vùng đầy toan tính trong bóng đêm? Tại sao họ có thể là bạn hữu khi họ lừa dối, mưu mô, che giấu, chui rúc, gian xảo với chính anh em một nhà? Ngược lại, bên nào đã vinh danh "lí tưởng cao đẹp" mà đi giết đồng bào ruột thịt mình không gớm tay bằng toan tính tàn ác? Tác giả thấu rõ sự thật ngang trái đau lòng này hơn ai hết và đã khái quát bối cảnh chiến tranh Nam - Bắc qua việc xây dựng ba nhân vật điển hình, đầy dụng ý như vậy.

Cái tài tình, duyên dáng mà thâm sâu ở ông còn biểu lộ qua chất thơ lung linh, kì diệu từ những hình ảnh biểu trưng thân quen của quê hương như: bác xích lô già, áo dài nữ sinh đoan chính, những hộp đêm văn nghệ thơ mộng ở Sài Gòn, cà phê, Cognac, hình ảnh những trận bóng chân trần, tiếng bồ đập lúa mùa gặt, tiếng chó sủa, tiễng mõ, vòng tay ôm của mẹ, phong bì lì xì mê hoặc vui sướng, nhạc vàng trữ tình, hương vị món phở quê nhà đượm đầy tình cảm của người mẹ nấu cho con, tình yêu đôi lứa nồng nàn, tình nghĩa vợ chồng, diễn trình hình thành bào thai - kết tinh của sự sống thiêng liêng, sự huân dưỡng con trẻ, hay ơn Cúc dục Cù lao, ... hay đến ảnh hình oan nghiệt, ngang trái như: màu đỏ máu của “cách mạng”, cái tay búa liềm, bàn chân chui rúc, cái mặt không còn mặt, tiếng hét rú, tiếng cười man rợ, nỗi đau, thời gian không còn chạy thẳng tưng, những khuôn gạch đúc từ phân người để làm nên tòa nhà “cách mạng” đầy ẩn dụ mỉa mai miệt thị ... cho đến những câu văn đầy triết tính về sự sống, cái chết, khổ đau, tự do và giá trị nhân bản. Xuyên suốt truyện, không nơi nào mà tác giả thôi nhắc đến tình yêu và sự tri ân của người con trai - nhân vật "Tôi" - với công ơn sinh thành dưỡng dục của người mẹ, một tình cảm thiêng liêng cao trọng mà không sao đong đếm cho tận, vượt thắng cả không gian và thời gian mãi mãi. Ngoài tình cảm sâu nặng với người mẹ huyết thống máu mủ ấy, phải chăng tác giả còn hàm nghĩa rằng, ông cũng như tất cả chúng ta, mọi con dân Việt, chớ quên ơn Đất Mẹ, phải chi là Người Mẹ hoa gấm của bao thế hệ, vẫn luôn trường tồn trong tâm thức mỗi người? Tất cả được đính kết đầy dụng ý mà càng ngày chỉ càng thắt chặt thêm tính thống nhất vững chắc giá trị của tác phẩm The Sympathizer mà chỉ đôi dòng ngắn ngủi ở đây không thể nào kể hết được.


"Tiếng nước tôi, Tiếng Mẹ sinh từ lúc nằm nôi, Thoát ngàn năm thành tiếng lòng tôi ..."

"...Tiếng nước tôi, Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui, khóc cười theo mênh nước nổi trôi ..."
[Phạm Duy - Tình Ca]

Có một chút tư lự là phải chăng người ta thường hay tiếp nhận những áng văn, bản dịch, hay tiếng Mẹ trong đời sống với thói quen đọc những câu chữ ăn liền, dễ ăn, dễ hiểu, cạn nghĩa, tối nghĩa, sai nghĩa, như thể tiếp cận một bản tin bọt bèo nhanh lẹ rồi chóng quên. Phải chăng người ta chỉ quan tâm phần ngọn chứ ít ai thấy áng văn đẹp lưu luyến mãi không rời, có đào sâu hồn để văn chữ dạy mình thành người, có sống với văn chương chữ nghĩa đó chăng? có khi họ biến tiếng Mẹ méo mó, lệch lạc lẫn lưu dùng cái sai lệch mà không biết nghĩ tới cho các thế hệ trẻ sau này.

Chính đó, tôi biết ơn Viet Thanh Nguyen với tác phẩm văn chương tâm huyết, tôi cũng xin tri ân dịch giả Le Tung Chau môt người thông tuệ đã chuyển ngữ nguyên tác sang Việt ngữ bằng tất cả sự chân thật, trung thành và tôn trọng nguyên tác của anh và bỏ công chú thích hơn 150 điểm giúp bạn đọc dễ dàng hiểu những kiến thức phổ thông, văn hóa, lịch sử được đề cập trong tác phẩm. Giá trị Việt văn giàu có Tiếng Mẹ đẻ cách trau chuốt, trân trọng, nâng niu, góp phần làm độc giả tri nhận tri thức cách dễ dàng, đúng đắn và sâu lắng, và từ tri nhận tri thức qua văn chương tinh túy đắt giá nơi bản dịch Việt ngữ, người ta huân dưỡng, làm giàu tâm hồn tròn trịa nhân cách, nhân bản cuả mình để biết sống cho đời, điều mà có lẽ hiếm dịch giả nào đã làm đúng trách nhiệm giữ gìn sự giàu có của kho tàng trí tuệ văn chương trong tình cảnh nước nhà mục nát trên mọi cơ sở, đặc biệt lĩnh vực văn chương, nghệ thuật hay báo chí như hiện nay.


Lời Kết:

Suy cho cùng, khi ta gấp sách lại, The Sympathizer của Viet Thanh Nguyen đọng lại điều gì? Ngoài lên tiếng tố cáo tội ác của Cộng sản trong chiến tranh Việt Nam, Giá trị lớn vươn tầm thế giới đoạt giải Pulitzer này chẳng phải đầy triết tính về mặt nhân bản sao? Là rằng để sống đúng là một con người hoàn chỉnh (không phải con vật, một chiều, một hướng) chẳng phải ta nên đặt mình vào cương vị của người khác mà nhìn nhận, suy xét để hành xử, đối đãi với nhau, với cộng đồng, với thế giới đại đồng cho đúng sao? Nếu không như thế, bao giờ con người là mới thành người?

..
Tháng ngày này, tháng ngày trân quý và hy vọng ở những cuộc gặp gỡ tri thức, suy biết, văn chương, con người và sự biến đổi...


Thaophuong ngày 25.4.2020

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
New Book Release: This book is a translation of a collection of personal, literary, and journalistic vignettes of Vietnamese individuals who have made notable contributions to literature, art, and science. It is a rich source of information on the social, cultural, and political history of South Vietnam, as well as the individual careers of its human subjects...
Làm thơ là một hành trình, với nhiều người, có khi rất là tình cờ bất chợt như làn gió mát buổi sớm chúng ta gặp mà không hề mong đợi. Thơ của chị Lê Phương Châu có phong cách như thế, khi thơ đọc như là những dòng chữ tình cờ, nơi đây chị có vẻ như không cố ý tìm chữ, tất cả chỉ là tự nhiên như ca dao. Trên từng dòng chữ, chị hiện ra như các hơi thở của tỉnh thức, để tự quán sát đời mình tan rã từng ngày, từng giờ, từng khoảnh khắc trong dòng sông vô thường. Và từ đó, thơ của chị khởi dậy trên các trang giấy.
Trong những năm gần đây, các thư viện công tại Hoa Kỳ – vốn từng là không gian yên tĩnh dành cho học tập và tra cứu – đã trở thành điểm nóng trong các cuộc tranh chấp văn hóa. Hàng ngàn cuốn sách bị yêu cầu cấm lưu hành, không phải bởi độc giả trực tiếp, mà từ các nhóm chính trị cánh hữu sử dụng mạng xã hội để vận động phản đối hàng loạt. Riêng năm học 2023–2024, PEN America ghi nhận tới 10.046 lượt cấm sách ở các trường công, ảnh hưởng tới 4.231 tựa sách và 2.662 tác giả; trong đó Florida và Iowa chiếm lần lượt 4.561 và 3.671 lượt cấm trong năm học. Gần một nửa trong số đó là sách viết bởi các tác giả LGBTQIA+ hoặc thuộc các cộng đồng chủng tộc thiểu số – những tiếng nói vốn đã bị thiệt thòi trong ngành xuất bản, nay tiếp tục bị đẩy ra ngoài bằng nhãn “không phù hợp.”
Cũng tâm thái ấy, tôi có được khi đọc Phòng Triển Lãm Mùa Đông của nhà văn Đặng Thơ Thơ, và sau đó là xoay sở cho lọt vào những con chữ mang đầy ý nghĩa bức phá hiện thực...
Nguyễn Hữu Liêm là một người đa dạng, không chỉ trong nghề nghiệp mưu sinh, mà cả trong những lĩnh vực cầm bút, lý luận. Ông là một người gây tranh cãi trong những nhận định về cộng đồng, và cả trong những bài viết về rất nhiều đề tài, như văn hoa, triết học, tôn giáo, chính trị. Dĩ nhiên, sôi nổi nhất là lĩnh vực chính trị. Nguyễn Hữu Liêm mưu sinh với nghề Luật sư, giảng dạy Triết. Những bài viết của ông bất kể gây tranh luận thế nào trong cộng đồng, vẫn là những đề tài cần được cộng đồng suy nghĩ nghiêm túc. Do vậy, từ một bàn viết lặng lẽ ở San Jose, Nguyễn Hữu Liêm trở thành người khơi dậy những cuộc tranh luận không chỉ ở hải ngoại, mà còn cả trong Việt Nam.
Đặng Thơ Thơ cùng thế hệ với ông bác, em ruột mẹ tôi, sống trong thời Việt Nam Cộng hòa và cũng như ông bác tôi, Thơ Thơ xa xứ cùng gia đình, người bác theo ngành y còn chị ngành giáo dục, viết văn, sáng lập trang Da Màu như cách để giữ gìn bản sắc và ngôn ngữ Việt. Xa quê mới nhớ nhà, rời nhau mới ngẩn ngơ căn nhà cắt rốn, sợ mất tiếng mất giọng, ngôn ngữ bay tro nên việc người Việt tha hương lập ra các trang Văn Hải Ngoại là cách đại đoàn kết khỏi cảnh nhớ nhà, đồng thời đấy cũng là sân chơi, thư viện lưu trữ bản thảo, để người trẻ muốn tìm tòi giai đoạn 20 năm miền Nam, muốn thử sức mà không cần phải trình bày thành tích đăng báo, in sách chung sách riêng đều có thể liên lạc.
Không ai ngờ nhà thơ này làm được các bài thơ kể chuyện về các Thiền sư Việt Nam trong thể thơ Đường luật, y hệt như khai mở lại một mạch nguồn thi ca sinh động. Những bài thơ của thầy, tinh luyện từng chữ, dịu dàng mang hơi thở Thiền Tông Việt Nam. Tôi đọc và kinh ngạc, như gặp lại một tri kỷ những năm rất xưa cũ, nhưng với một chân trời thi ca hoàn toàn mới. Nơi đó, riêng một mình Thầy Thích Chúc Hiền bước đi đơn độc, trong văn phong thanh thản, giữa những như dường gian nan trong từng chữ, từng ý đối, từng vần trau chuốt khó gieo, và trong từng âm vang Thiền ngữ. Tôi đọc và cảm nhận từng trang thơ đầy những tràn ngập hạnh phúc, hẳn nhiên là cho cả thi sĩ Thích Chúc Hiền và cho cả những độc giả khó tính như tôi. Từ thầy, tôi nhận ra rằng thơ Đường luật không hề cũ, chỉ là vì mình đã tránh né một lối đi rất khó khăn của thi ca.
THUYỀN là cuốn tiểu thuyết của nhà thơ Nguyễn Đức Tùng. Tác phẩm thuật lại chuyến vượt biên bằng đường biển của một nhóm người khi phong trào vượt biên trong nước lên cao, vào khoảng giữa hai thập niên 70s và 80s. Vì là tiểu thuyết nên cuốn sách thoát xác ra khỏi dạng hồi ký (mặc dù tự sự của nó bám sát sự thật và những điều có thể xem như sự thật) và nhất là nhờ được viết với bút pháp “dòng ý thức” nên nó đồng thời bật mở những suy nghiệm về lịch sử, chiến tranh, quê hương, tình yêu, sự sống, sự chết, sự tàn bạo, lòng nhân đạo, ký ức, lòng khao khát được sống, dòng chảy thời gian, cái nhẹ của nhân sinh, và nhiều thứ khác...
Tôi kinh ngạc khi thấy mình có thể sống trong rất nhiều thế giới trong một ngày. Bật máy vi tính lên, tìm các bản tin thế giới và quê nhà qua Google, chọn tin và dịch. Từ những xúc động có khi rơi nước mắt khi đọc tin về nỗi đau đớn của những người đang sống dưới mưa bom như Palestine, Ukraine, cho tới nỗi lo lắng khi thấy các bản tin về Biển Đông và đói kém ở quê nhà, cho tới những sân si trong thế giới quyền lực ở Hoa Kỳ... Thời gian nghỉ tay, đọc những dòng thơ nơi này hay nơi kia, từ khắp thế giới, là hạnh phúc đời thường của tôi. Trong đó, tôi thường theo dõi những dòng chữ của nhà thơ Thiện Trí, người cũng là một thiền sư đang dạy Thiền thực nghiệm ở Nam California. Có khi tôi mở bản sách giấy ra xem, và có khi vào Facebook tìm đọc "Monk Thiện Trí."
Cuốn tiểu thuyết “Đường về thủy phủ” của nhà văn Trịnh Y Thư là một tác phẩm ám ảnh và đầy trăn trở, khiến tôi phải đọc đi đọc lại và phải suy ngẫm nhiều lần. Vì sao? Vì mỗi khi khép sách lại, tôi luôn có cảm tưởng dường như mình đã bỏ sót một điều gì đó…


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.