Hôm nay,  

Cuộc Gặp Gỡ Đong Đầy Hy Vọng

29/04/202011:25:00(Xem: 4995)

(Nhận định về tác phẩm The Sympathizer của Viet Thanh Nguyen)
(Ghi dấu tháng 4 đen lần thứ 45.)

Trong những ngày nhàn rỗi cuả tháng 4, vô tình được đọc tác phẩm The Sympathizer (Grove Press New York, 2015) của Viet Thanh Nguyen (sinh năm 1971 tại Ban Mê Thuột), với bản dịch Việt Ngữ của Lê Tùng Châu (23 chương 434 trang), tôi hoàn toàn bị cuốn hút và ngỡ ngàng trước một tiểu thuyết lấy bối cảnh về chiến tranh Viet Nam, nhưng toàn truyện như một bản hòa tấu đủ cung bậc thăng trầm, với nhiều đoạn trường canh vừa có triết tính và thơ mộng, vừa có ý nghĩa sâu sắc và mang tính gợi hướng của thời đại. Chính Viet Thanh Nguyen, một nhà văn người Mỹ gốc Việt đã đánh bại bao nhiêu tác phẩm khác trên đấu trường văn chương và được hội đồng chấm giải Pulitzer vinh danh, trao giải năm 2016...


Tóm Lược Cốt Truyện:

Nhân vật "Tôi" trưởng thành trong thời đoạn đen tối nghiệt ngã của cuộc chiến Quốc - Cộng, với vai trò là kẻ nằm vùng cho phe Cộng sản, "Tôi" trà trộn vào hàng ngũ của ông Tướng (bên Quốc Gia) với vỏ bọc là một Đại Úy Cảnh Sát Quốc Gia, nhưng cung cấp mọi tin mật thu được và báo cáo về cho cấp trên là "Man" (bên Cộng sản). Câu chuyện xoay quanh 3 nhân vật chính từ thuở ấu thơ và đã cắt máu ăn thề kết nghĩa tình huynh đệ là "Tôi", "Man" và "Bon", như đại diện cho 3 kiểu người điển hình của đất nước, mà trong đó "Tôi" người luôn suy nghĩ nhiều chiều, gom góp, thu nhặt nhưng là để nhìn thấu bản ngã của anh để thành nhất thể có chính kiến; "Man" người Cộng sản có tư tưởng và hành động thuấm nhuần chủ nghĩa Marxist, luôn khao khát "giải phóng" miền Nam với hy vọng dựng xây đất nước thành thiên đường Cộng sản; "Bon" người biệt kích của quân đội miền Nam, đau đớn căm phẫn khi quân Cộng sản tàn ác dấy lên chiến tranh nơi quê hương anh, vợ và con anh đã tử nạn trên đường vượt thoát khỏi Sài Gòn vào ngày thất thủ. Tuy đại diện 3 tuýp người khác nhau nhưng có vẻ đều chung phần cố gìn giữ nhân tính thẳm sâu trong lòng, dẫu con tàu định mệnh lịch sử đã dằn nát tàn khốc xác thân, tâm hồn họ. Họ không còn "nhà" nữa, họ phải trốn chạy ("Tôi" và "Bon")
Sau đó "Tôi" và "Bon" cùng tị nạn trên đất Mỹ mà khổ sở nhớ thương quê hương, luôn mong chờ sẽ có ngày về. Trong khi "Man" ở lại chứng kiến phút giây chuyển đổi nghiệt ngã của lịch sử. Cả ba đều mang từng nhiệm vụ riêng biệt. "Tôi" vẫn tiếp tục cung cấp thông tin tình báo cho phía Man và Cộng sản về nhất cử nhất động nội tình của ông Tướng và đoàn phục quốc quân (trong đó có Bon) với kế hoạch quay trở về xâm nhập nội địa.
Chuyến "Tôi" và "Bon" từ căn cứ ở Thái Lan băng rừng xâm nhập Việt Nam thì cả hai bị lọt ổ phục kích (do "Tôi" mật báo) và bị bắt. Sau đó, "Tôi" và "Bon" bị đưa vào trại tù cải tạo. Tại đây "Man" là Chính trị viên - trại trưởng trại cải tạo này, có quyền sinh sát mọi tù nhân.

Viet Thanh Nguyen đã tạo nút thắt đỉnh điểm cao trào đầy xung đột kịch liệt cho câu chuyện đến đây là 21 chương. Cả "Man" và "Tôi" đều nhận ra rằng họ đã bị nhầm khi dấn thân, hy sinh tuổi trẻ mình cho “cách mạng”: Lý tưởng Cộng sản chỉ là chiếc bánh vẽ dối trá, miền Bắc Cộng sản sau khi thôn tính miền Nam quốc gia, đã không hề giải phóng cho ai cả mà còn dùng bạo lực tước đoạt tự do của toàn thể dân chúng. Thế là Man và “Tôi” cùng phối hợp diễn vài màn kịch tính do "Man" dựng ra để cứu sống "Bon" và "Tôi" ra khỏi trại tù cải tạo và đưa cả hai vượt biên bằng thuyền chạy thoát khỏi đất nước. Tại đây, Tác giả đã xây dựng thành công một lối mở cho nút thắt của câu chuyện.

Thế nhưng, thật ngang trái ở chỗ ngay từ đầu cả đến cuối truyện, "Bon" là người không hề biết sự thật về "Man" là Cộng sản, về “Tôi” là Việt cộng nằm vùng, cũng như không hề biết mối quan hệ đồng chí giữa "Tôi" và "Man". Thậm chí khi bị vào trại cải tạo "Bon" vẫn không biết Man là chính trị viên - trại trưởng trại tù cải tạo đó. Chớ phải chi "Bon" biết chân tướng nằm vùng của hai người anh em kết nghĩa của mình, anh ấy sẽ giết họ ngay lập tức chăng vì lập trường bất biến của Bon là không chấp nhận Cộng sản?
Rồi đây, Số phận "Man" như thế nào không ai biết.
Xin mời quý độc giả đọc tác phẩm sẽ rõ.


Tác Phẩm Trong Mắt Tôi:

Tuyệt tác thâm thúy The Sympathizer của tác giả Viet Thanh Nguyen (qua bản dịch Việt ngữ của Lê Tùng Châu) mở đường cho độc giả hiểu những kiến thức Sử nội chiến Quốc Cộng 20 năm, chính trị, văn hóa và kiến thức Đông - Tây, văn chương, nghệ thuật, âm nhạc, triết học, giáo dục, cách mạng tình dục (ở Mỹ và phương Tây)...

Nhưng cốt lõi hơn cả đây là bản cáo trạng trần trụi khiến người đọc suy tư vì đâu chiến tranh Viet Nam tang thương, quê hương điêu linh? Phải chăng các bên cường quốc thế giới nhảy vào đất nước chúng ta vì tranh dành một miếng mồi béo bở. Phải chăng họ dành quyền đại diện thay tiếng nói của dân ta mà cuộc chiến ấy do Quốc tế Cộng sản và Tư bản gây nên. Phải chăng Miền Bắc "giải phóng" miền Nam chỉ vì ý thức hệ và tham vọng quyền lực. Phải chăng những kẻ rêu rao danh nghĩa cách mạng đấu tranh giành độc lập tự do lại tước đoạt tự do của người khác?
Bởi đâu mà những giá trị văn hóa, giáo dục, đạo đức, nhân bản bị suy đồi, đạp đổ tàn nhẫn ngay tại thiên đường XHCN mục ruỗng ngày hôm nay. Biết bao mạng người đã ngã xuống trong quá khứ lẫn tiếp diễn đến hiện tại cách vô nghĩa để đổi lại một xã hội đói nghèo, tối tăm, tha hóa, không tương lai. Những thuyền nhân cố tìm đường chạy trốn Cộng sản từ ngày "hòa bình" đến trên quê hương? chiến tranh Việt Nam ta đâu đã kết thúc?

Viet Thanh Nguyen đã dùng thuật sáng tác độc đáo vô cùng mà chỉ khi đọc trọn tác phẩm, người ta mới nhận ra toàn bộ tiểu thuyết chỉ là một bảng thú nhận / một bản kiểm điểm cay đắng của nhân vật "Tôi" - gián điệp hai mang - được viết trong xà lim biệt giam những năm tháng chịu sự tra tấn tàn bạo của chính các đồng chí Việt cộng. Mà rồi chính bảng thú nhận đó chẳng phải là một bằng chứng hữu hình, hữu hiệu hòng nỗ lực lên tiếng vạch trần những mưu đồ đen tối, biến chất, vô nhân tính của chế độ cộng sản đó sao?

Bên cạnh kiến thức uyên thâm, thuật sáng tác tài tình, cũng phải kể đến cách dụng văn và ý của Viet Thanh Nguyen. Có lúc ông dùng thủ pháp Ẩn – Hiện, Hư – Thực, dương Đông kích Tây, chỉ Tang mạ Hòe, Ý tại Ngôn ngoại, đồ đi đố lại, châm biếm, trào phúng, tự trào, ẩn dụ, phân thân, ngụy trang, đánh lạc hướng - bắt người đọc phải suy nghĩ để nhận ra (Ví dụ chương 22, đoạn đối đáp của nhân vật Tôi với 3 nhân vật Cộng sản về cái chết người cha Linh Mục của “Tôi” – với một viên đạn vào đầu???), Thuận - Nghịch thời gian, biến chuyển không gian - thủ pháp dựng phim điện ảnh này chuyển cảnh liên tục... Tất cả được kết hợp thuần thục, khéo léo để trình bày cái nhìn cũng như kết án và tố cáo, một cách bậc thầy khi viết văn.

Việc xây dựng nhân vật "Tôi" có hai tâm trí trong cùng một xác thân với diễn biến tâm lí và quá trình hoạt động hoàn toàn chặt chẽ. Viet Thanh Nguyen luôn để nhân vật của mình nhìn nhận và có chính kiến, bày tỏ cái hay - dở, đồng tình hay phản đối, thuận tiện hay bất lợi trên mọi bình diện của cuộc đời "Tôi" từ văn hóa, sinh hoạt hai miền Nam - Bắc (và cả những dị biệt 2 nền văn hóa Đông - Tây), giáo dục, quan điểm chính trị, ứng xử, nhưng phải kể đến ở "Tôi" là sự tổng hòa thấu hiểu nguyên do và nỗi đau chiến tranh Viet Nam với hai mặt của vấn đề xuyên suốt mạch truyện cách công tâm, đặc biệt phải kể đến thủ pháp phân thân trong đoạn tra khảo (chương 22) - từ nhân vật "Tôi" thành Chúng Tôi rõ nhất ở đoạn cuối (chương 23), rồi đến Chúng Tôi hòa vào Chúng Ta. Rõ ràng, đây là nhân vật chính diện luôn trong trạng thái tỉnh thức, trăn trở, suy tư và mang bao gởi gắm quan điểm, tâm tình, khai mở và hi vọng của Viet Thanh Nguyen đến với bạn đọc, rằng hãy luôn suy biết hai mặt nhị nguyên của chiến tranh Việt Nam, đừng chỉ ấu trĩ nhìn về một chiều, đừng để bị nhồi sọ bởi bánh vẽ ảo tưởng tốt lành Độc Lập, Tự Do, cái mà đã không bao giờ có ở thực trên đất nước chúng ta kể từ ngày "cách mạng " thành công, đừng để họ áp đặt, đại diện thay chúng ta bằng tiếng nói rỗng tuếch, dối trá của họ, đừng để họ cầm tù ý nghĩ của chúng ta. Đừng để họ ru ta bằng khẩu hiệu vô nghĩa. chính chúng ta phải cất lời đại diện cho vận mệnh của nước Việt mình, nếu không, chúng ta đang chết, sẽ chết đến mất dạng, chết mịt mùng, và đáng sợ hơn hết là chết trong chính việc đang sống từng ngày (và thực tế, chúng ta đã không có được tiếng nói đại diện nào cho mình. Dân tộc ta, miền Nam cũng như Bắc đâu ai chọn cái chết vô nghĩa vô ích, thế nhưng kẻ nào đã chọn cho chúng ta thế này?).

Điều gì làm ông Viet Thanh Nguyen khắc khoải đến nỗi từ một người Việt tị nạn khi mới lên bốn rồi trưởng thành ở xứ người với nhiều nét giống người Mỹ hơn người Việt, nhưng vẫn luôn đau đáu, xót xa lội ngược về cội nguồn nơi mà tâm khảm ông gắn mình liền thân với quê nhà, với hồn thiêng quốc túy, với kho tàng tiếng Mẹ. Một nhân sĩ có chí lớn công tâm, yêu quê hương tha thiết, cố đào bới kho lịch sử để đặt bút viết nên tác phẩm đầy thao thức, gợi hướng, hằng mong mỏi bạn đọc nhận ra, mà cất lên lời cho những đồng bào đang chịu ách tà ngụy, bất công trong xã hội băng hoại này và phục dựng những điều đẹp xưa cũ từng hiện diện nay đã mất đi.

Phải nói thêm rằng việc xây dựng 3 nhân vật chính: "Tôi", " Man", "Bon" như thể biểu trưng cho 3 chí nguyện, 3 khuynh hướng, 3 lập trường cho một hoàn cảnh éo le ngang trái có thực trong cuộc nội chiến Quốc – Cộng tương tàn đã được tác giả khéo léo khái quát tài tình. 3 Biểu tượng cho cuộc chiến Quốc - Cộng oan khốc đó là Miền Nam không bao giờ chấp nhận sống chung với Cộng sản, trong khi đó Miền Bắc đòi đánh chiếm miền Nam bằng mọi giá rồi biến miền Nam chìm trong máu và lửa, còn những người như "Tôi" - một phe thân với cả hai bên - đại diện cho cái rốn tâm thức của người dân Việt Nam từ hai phía, luôn muốn dung hòa. Đó là thân phận đau đớn của đất nước chúng ta, tình trạng của "Tôi" - nhân vật Đại Úy - có đầy trong các gia đình Việt Nam. Mà đó có phải chính hình ảnh người Quốc Gia đã vô cùng ngây thơ, hiền lành, thậm chí không biết mình bị lợi dụng trong cách chơi với bạn bè với anh em? bị phản bội bởi những người không đáng gọi là bạn, không phải tình bạn, tình anh em trong ánh sáng nhưng chỉ là mối quan hệ ảo ảnh, đục khoét, lén lút, nằm vùng đầy toan tính trong bóng đêm? Tại sao họ có thể là bạn hữu khi họ lừa dối, mưu mô, che giấu, chui rúc, gian xảo với chính anh em một nhà? Ngược lại, bên nào đã vinh danh "lí tưởng cao đẹp" mà đi giết đồng bào ruột thịt mình không gớm tay bằng toan tính tàn ác? Tác giả thấu rõ sự thật ngang trái đau lòng này hơn ai hết và đã khái quát bối cảnh chiến tranh Nam - Bắc qua việc xây dựng ba nhân vật điển hình, đầy dụng ý như vậy.

Cái tài tình, duyên dáng mà thâm sâu ở ông còn biểu lộ qua chất thơ lung linh, kì diệu từ những hình ảnh biểu trưng thân quen của quê hương như: bác xích lô già, áo dài nữ sinh đoan chính, những hộp đêm văn nghệ thơ mộng ở Sài Gòn, cà phê, Cognac, hình ảnh những trận bóng chân trần, tiếng bồ đập lúa mùa gặt, tiếng chó sủa, tiễng mõ, vòng tay ôm của mẹ, phong bì lì xì mê hoặc vui sướng, nhạc vàng trữ tình, hương vị món phở quê nhà đượm đầy tình cảm của người mẹ nấu cho con, tình yêu đôi lứa nồng nàn, tình nghĩa vợ chồng, diễn trình hình thành bào thai - kết tinh của sự sống thiêng liêng, sự huân dưỡng con trẻ, hay ơn Cúc dục Cù lao, ... hay đến ảnh hình oan nghiệt, ngang trái như: màu đỏ máu của “cách mạng”, cái tay búa liềm, bàn chân chui rúc, cái mặt không còn mặt, tiếng hét rú, tiếng cười man rợ, nỗi đau, thời gian không còn chạy thẳng tưng, những khuôn gạch đúc từ phân người để làm nên tòa nhà “cách mạng” đầy ẩn dụ mỉa mai miệt thị ... cho đến những câu văn đầy triết tính về sự sống, cái chết, khổ đau, tự do và giá trị nhân bản. Xuyên suốt truyện, không nơi nào mà tác giả thôi nhắc đến tình yêu và sự tri ân của người con trai - nhân vật "Tôi" - với công ơn sinh thành dưỡng dục của người mẹ, một tình cảm thiêng liêng cao trọng mà không sao đong đếm cho tận, vượt thắng cả không gian và thời gian mãi mãi. Ngoài tình cảm sâu nặng với người mẹ huyết thống máu mủ ấy, phải chăng tác giả còn hàm nghĩa rằng, ông cũng như tất cả chúng ta, mọi con dân Việt, chớ quên ơn Đất Mẹ, phải chi là Người Mẹ hoa gấm của bao thế hệ, vẫn luôn trường tồn trong tâm thức mỗi người? Tất cả được đính kết đầy dụng ý mà càng ngày chỉ càng thắt chặt thêm tính thống nhất vững chắc giá trị của tác phẩm The Sympathizer mà chỉ đôi dòng ngắn ngủi ở đây không thể nào kể hết được.


"Tiếng nước tôi, Tiếng Mẹ sinh từ lúc nằm nôi, Thoát ngàn năm thành tiếng lòng tôi ..."

"...Tiếng nước tôi, Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui, khóc cười theo mênh nước nổi trôi ..."
[Phạm Duy - Tình Ca]

Có một chút tư lự là phải chăng người ta thường hay tiếp nhận những áng văn, bản dịch, hay tiếng Mẹ trong đời sống với thói quen đọc những câu chữ ăn liền, dễ ăn, dễ hiểu, cạn nghĩa, tối nghĩa, sai nghĩa, như thể tiếp cận một bản tin bọt bèo nhanh lẹ rồi chóng quên. Phải chăng người ta chỉ quan tâm phần ngọn chứ ít ai thấy áng văn đẹp lưu luyến mãi không rời, có đào sâu hồn để văn chữ dạy mình thành người, có sống với văn chương chữ nghĩa đó chăng? có khi họ biến tiếng Mẹ méo mó, lệch lạc lẫn lưu dùng cái sai lệch mà không biết nghĩ tới cho các thế hệ trẻ sau này.

Chính đó, tôi biết ơn Viet Thanh Nguyen với tác phẩm văn chương tâm huyết, tôi cũng xin tri ân dịch giả Le Tung Chau môt người thông tuệ đã chuyển ngữ nguyên tác sang Việt ngữ bằng tất cả sự chân thật, trung thành và tôn trọng nguyên tác của anh và bỏ công chú thích hơn 150 điểm giúp bạn đọc dễ dàng hiểu những kiến thức phổ thông, văn hóa, lịch sử được đề cập trong tác phẩm. Giá trị Việt văn giàu có Tiếng Mẹ đẻ cách trau chuốt, trân trọng, nâng niu, góp phần làm độc giả tri nhận tri thức cách dễ dàng, đúng đắn và sâu lắng, và từ tri nhận tri thức qua văn chương tinh túy đắt giá nơi bản dịch Việt ngữ, người ta huân dưỡng, làm giàu tâm hồn tròn trịa nhân cách, nhân bản cuả mình để biết sống cho đời, điều mà có lẽ hiếm dịch giả nào đã làm đúng trách nhiệm giữ gìn sự giàu có của kho tàng trí tuệ văn chương trong tình cảnh nước nhà mục nát trên mọi cơ sở, đặc biệt lĩnh vực văn chương, nghệ thuật hay báo chí như hiện nay.


Lời Kết:

Suy cho cùng, khi ta gấp sách lại, The Sympathizer của Viet Thanh Nguyen đọng lại điều gì? Ngoài lên tiếng tố cáo tội ác của Cộng sản trong chiến tranh Việt Nam, Giá trị lớn vươn tầm thế giới đoạt giải Pulitzer này chẳng phải đầy triết tính về mặt nhân bản sao? Là rằng để sống đúng là một con người hoàn chỉnh (không phải con vật, một chiều, một hướng) chẳng phải ta nên đặt mình vào cương vị của người khác mà nhìn nhận, suy xét để hành xử, đối đãi với nhau, với cộng đồng, với thế giới đại đồng cho đúng sao? Nếu không như thế, bao giờ con người là mới thành người?

..
Tháng ngày này, tháng ngày trân quý và hy vọng ở những cuộc gặp gỡ tri thức, suy biết, văn chương, con người và sự biến đổi...


Thaophuong ngày 25.4.2020

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhà văn Trịnh Y Thư vừa ấn hành tuyển tập Theo Dấu Thư Hương 2, gồm nhiều bài viết trong nhiều chủ đề đa dạng, phần lớn là về văn học nghệ thuật, đôi khi là lịch sử, khoa học, xã hội. Tuyển tập dày 294 trang, đang lưu hành trên các mạng, như Amazon và Barnes & Noble. Nhìn chung, tác phẩm giúp độc giả soi rọi thêm nhiều cách nhìn đa dạng, mới mẻ, kể cả khi tác giả viết về những người viết chúng ta đã quen thuộc trong văn học Việt Nam, như về Ngô Thế Vinh, Đỗ Hồng Ngọc, Nguyễn Thị Khánh Minh, và nhiều người khác...
Hans Fallada, tên thật là Rudolf Ditzen, người đã sống giữa những biến động của nước Đức — từ sự sụp đổ của Đế chế, đến cơn bão của Thế chiến thứ nhất, rồi bước vào cơn ác mộng của Đệ tam đế chế. Trước chiến tranh, Fallada là một nhà văn nổi tiếng, tác giả của Little Man, What Now?, được Hollywood dựng thành phim. Nhưng khi Hitler lên nắm quyền, ông bị cấm xuất bản, bị Gestapo rình rập, và bị ép phải viết những tác phẩm phục vụ tuyên truyền. Tưởng chừng như bị nghiền nát giữa bạo lực và sợ hãi, ông lại tìm thấy trong ngục tối một đường sống của tâm hồn – viết. Trong ngục tối, ông bí mật viết nên ba cuốn tiểu thuyết mã hóa, và sau chiến tranh, vừa thoát xác một người sống sót, ông viết cuốn cuối cùng: Mỗi người đều chết một mình (Every Man Dies Alone).
Năm 2025 đánh dấu một bước ngoặt đặc biệt trong hành trình của Ocean Vuong (1). Nhà văn, nhà thơ gốc Việt nầy đã trở thành một trong những khuôn mặt quan trọng nhất của văn chương Mỹ đương đại. Không còn là “hiện tượng thơ”, không còn được biết đến qua nỗi đau di dân, không còn đứng trong hào quang của Night Sky with Exit Wounds hay thành công bất ngờ của On Earth We’re Briefly Gorgeous trước đây, Ocean Vuong năm 2025 là một nhà văn đang mở ra biên giới mới của chính mình với The Emperor of Gladness, NXB Penguin Press, New York, 2025)...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Vâng, cảm ơn nhà thơ thiền sư Thiện Trí. Ý nghĩa rất minh bạch, rằng hãy về thôi. Về thôi, về mặc Cà Sa / Về thôi cởi áo Ta Bà phong sương... Hiển nhiên, không phải là đổi y phục, mà phải là chuyển hóa nội tâm. Cởi áo Ta Bà không đơn thuần là rời bỏ đời sống cư sĩ hay thế tục, mà là buông bỏ tâm vọng động, tâm phân biệt, tâm chấp ngã vốn đã bị phong sương của sinh tử bào mòn. Mặc áo Cà Sa không nhất thiết là khoác lên mình chiếc áo của người xuất gia, mà là khoác lên tâm từ bi, trí tuệ, và vô ngã.
Khăn quấn. Áo sơ sinh. Muối. Tuyết. Băng. Năm vật trắng - năm tiếng gọi đầu tiên - đặt lên trang giấy như một chuỗi hạt. Trong tay Han Kang, chúng vừa là dấu hiệu khởi sinh, vừa là định mệnh. Đứa trẻ chưa kịp sống đã được bọc trong khăn trắng, và cũng chính khăn quấn ấy trở thành tấm liệm. Trắng ở đây không phải nền sáng, mà là sự trống vắng ngân nhịp toàn cuốn sách. Han Kang, nhà văn Hàn Quốc được biết nhiều qua The Vegetarian, tác phẩm đã đem về cho bà giải Nobel Văn chương năm 2024, xuất hiện trong văn học thế giới như một cơn gió lớn. Nhưng The White Book mới là tác phẩm tôi rất yêu của Bà – những dòng chữ lặng mà sáng, mong manh mà bám riết.
Cuốn sách này là một công trình phục vụ cộng đồng nhân kỷ niệm 50 năm xa quê hương sống đời viễn xứ (1975-2025). Sách được in thành 2 tập – Tập 1 gồm 41 tác giả và Tập 2 gồm 45 tác giả. Như vậy, tổng cộng có 86 tác giả, trong đó có nhiều tác giả đã nổi tiếng từ trước 1975. Tám mươi sáu tác giả đến vùng đất này bằng những cách khác nhau, trình độ khác nhau, nghề nghiệp khác nhau nhưng có một điểm tất cả đều giống nhau. Đó là: Họ đã sống và viết bên dòng Potomac.
Ngày 17 tháng 9 năm 2025, thi sĩ “Công giáo” Lê Đình Bảng đã bước vào độ tuổi thượng thọ. Ông đã chính thức đạt 83 tuổi Tây và 84 năm tuổi ‘Mụ’. Một độ tuổi cần nghỉ ngơi, an dưỡng tuổi già. Song với tình yêu văn chương, chữ nghĩa và đặc biệt là niềm tin vào tôn giáo, ông vẫn như một thanh niên tráng kiện, đầy đức tin và nhiệt huyết, khi cho ra mắt thi phẩm thứ 25, sau rất nhiều tác phẩm nổi tiếng với nhiều thể loại khác nhau như văn xuôi, nghiên cứu lịch sử, tôn giáo...sáng tác kể từ năm 1967 miệt mài cho đến nay...
Tập truyện ngắn vừa phát hành của nhà văn Trần Kiêm Trinh Tiên có một nhan đề rất là buồn, “Hạt U Minh.” Nhiều truyện trong tập này như dường viết về các lằn ranh bị vượt qua. Thí dụ, lằn ranh tình yêu (hay như dường là tình yêu) giữa một ni cô và một chàng trai trong trường Dòng. Hay thí dụ, mối tình giữa một thiếu nữ Huế và chàng trai Mỹ, và chàng chết khi bùng nổ các trận đánh trong Tết Mậu Thân ở Huế. Hay như truyện cuối trong tập, khởi đầu là các hình ảnh liên hệ tới Kinh Thánh Ki Tô Giáo, giữa truyện là ký ức một thiếu nữ về một truyện Thiền... Cuộc đời, vâng cuộc đời, thực sự là không có lằn ranh, dù là màu da hay tôn giáo. Tác giả có vẻ như muốn nêu chủ đề từ những chuyện đời thường.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.