Hôm nay,  

Thơ ‘Thắp tình’ của Thành Tôn: Trực diện với hư vỡ của đời

04/05/202223:05:00(Xem: 5443)

 

Thơ ‘Thắp tình’ của Thành Tôn:

Trực diện với hư vỡ của đời

Phan Tấn Hải


blank Nhà thơ Thành Tôn (phải) và nhà báo Phan Tấn Hải (đang cầm “Một Đời Thắp Tình”)

  

Nhà thơ Thành Tôn vừa phát hành sách nhan đề “Một Đời Thắp Tình” trong đó là một tuyển tập nhiều tác giả với nhiều phần, với hai phần là thơ của anh – nhóm các bài thơ đầu là từ thi tập “Thắp Tình” nguyên thủy là in năm 1969, nhóm các bài thơ sau là chương “Ngoại Tập” – tất cả đều là thơ sáng tác từ những thời tóc xanh. Không có bài thơ nào sáng tác sau năm 1975, vì như anh thường kể với bạn bè, trải qua nhiều năm trong tù và rồi gặp tai nạn, anh không còn có thể tập trung tinh thần để làm thơ được nữa, mặc dù là anh rất mực say mê thơ, say mê đọc và say mê cầm tới các trang sách. Điều kinh ngạc khi đọc thơ Thành Tôn là, ngay cả khi còn rất mực thanh niên lãng mạn, thơ của anh cũng phảng phất một nỗi buồn, một ý thức về tính hư vỡ của đời.
 

Tuyển tập mới phát hành trong tháng 4/2022 gồm nhiều Chương. Mở đầu là bài của Phạm Phú Minh, nhan đề “Người Hiền Của Thời Nay.” Kế tiếp là các bài thơ từ “Thắp Tình” và “Ngoại Tập” của Thành Tôn được sưu tập lại. Và sau đó là bài của rất nhiều người viết về con người và thi ca Thành Tôn. Trong đó có nhạc Nhật Ngân phổ thơ Thành Tôn, có 2 tranh chân dung nhà thơ Thành Tôn do Đinh Cường và Hoàng Thị Kim vẽ. Và rồi các bài thơ và văn của: Trần Huy Bích, Cung Tích Biền, Cao Thoại Châu, Đinh Cường, Hà Nguyên Dũng, Lê Hân, Trần Yên Hòa, Luân Hoán, Phạm Cao Hoàng, Lê Văn Hội, Hoài Khanh, Nguyễn Vy Khanh, Hoàng Thị Kim, Du Tử Lê, Tường Linh, Hoàng Lộc, Trần Thị Nguyệt Mai, Nguyên Minh, Lưu Na, Trần Văn Nam, Trần Doãn Nho, Võ Phiến, Hà Khánh Quân, Phan Xuân Sinh, Lê Huyền Thanh, Song Thao, Trần Hoài Thư, Trịnh Thanh Thủy, Nguyễn Mạnh Trinh, Khánh Trường, Hoa Văn, Phố Văn, T. Vấn.
 

Nghĩa là, một tuyển tập của tình bạn. Và thế là tác phẩm dày tới 512 trang. Bìa: Khánh Trường. Thực hiện: Nguyễn Vũ, Lê Hân. Sách được phát hành qua hệ thống https://www.amazon.com/
 

Trong lời giới thiệu trên Amazon, ghi trích đoạn từ bài của Phạm Phú Minh: “Cuốn sách mà độc giả đang cầm trên tay là một Tuyển tập về tình bạn. Nhiều người nói về một người bạn chung của mình. Không có một “ban chủ trương” đứng ra kêu gọi bạn bè viết về một nhân vật hay một tác phẩm, tất cả bài vở trong sách này đều là sưu tầm những bài viết đã có, xuất phát từ tấm lòng của mỗi tác giả trong nhiều thời điểm khác nhau, nơi chốn khác nhau, trường hợp xuất hiện khác nhau. Duy chỉ một điều giống nhau: tình cảm và suy nghĩ rất chân thành. Và đều hướng về một người: Nhà thơ Thành-Tôn. Nhà thơ Thành-Tôn bắt đầu làm thơ có lẽ vào khoảng đầu thập niên 1960, có thể sớm hơn. Và anh đã xuất bản một tập thơ, Thắp Tình, vào cuối thập niên 1960, mà chúng tôi xin phép tác giả được in lại trong quyển sách này để lưu giữ như một kỷ niệm quý báu chung với bạn bè. Nhiều bài trong tuyển tập này đã nói về tập thơ duy nhất đó của Thành-Tôn. Nhiều bài khác nói về chính tác giả, với những đặc tính tốt đẹp mà bạn bè muốn ghi lại. Đó là những điều mà chúng tôi, đại diện cho một số anh em bạn góp ý để làm ra Tuyển tập này, trình bày ngắn gọn để giới thiệu với người đọc. Và nhân đó, theo gương các bạn khác chúng tôi cũng xin ghi lại đôi điều biết được về Thành-Tôn từ cái nhìn chân thành của cá nhân mình…”

 
blank

Bìa tuyển tập “Một Đời Thắp Tình”
 

Tất cả những nhận xét từ các bạn văn của Thành Tôn đều là chân tình. Đều văn hay, chữ dẹp, nhân xét sắc bén. Nhưng Thành Tôn là ai vậy kìa? Vài dòng tiểu sử cho biết, nhà thơ Thành Tôn sinh ở Quảng Nam, học trường trung học Trần Cao Vân, Tam Kỳ. Anh cùng thời với Nguyễn Nho Sa Mạc, Huy Tưởng. Nhập ngũ, ra trường Thành Tôn làm việc ở tiểu khu Quảng Tín. Thành Tôn nổi tiếng từ khi đăng thơ trên Bách Khoa, trên Văn và khi xuất bản tập thơ Thắp Tình (1969).  Sang Mỹ năm 1996, Thành Tôn vẫn thủy chung với văn chương chữ nghĩa, mặc dầu không làm thơ như xưa nữa.

Nơi đây, xin trích ra những dòng thơ của Thành Tôn, với những lời rất buồn từ sáu thập niên trước âm vang lại. Luôn luôn, cuộc đời đã mang tính hư vỡ, không như ý.
 

Nỗi buồn của thị sĩ Thành Tôn hiển lộ rất minh bạch qua bài "Thư cho mẹ" trong tuyển tập "Một Đời Thắp Tình" nơi trang 45-47. Bài thơ dài 6 đoạn, mỗi đoạn 4 câu, nơi đây chúng ta trích 4 đoạn thơ đầu.

.

Trên xứ sở xanh xao từng tiếng súng
Trong hồn người dấu đạn đã chia phe
Con ôm ngực từng đêm đau tiếng động
Và từng đêm đường máu muốn lui về
.
Thân sỏi đá len dần trong vô vọng
Con quay đầu bỡ ngỡ ngắm dung nhan
Cha nhát cuốc tình thương nuôi ý sống
Xanh dần lên hương nội phấn hoa ngàn
.
Mẹ hiu hắt đèn chong đêm ngóng đợi
Nhà phên thưa gió thấm lạnh câu hò
Núi sông cũng ngậm ngùi theo tay với
Của thằng em đói cả tiếng ru hời
.
Tôi bất lực như quê hương nhỏ bé
Nhìn người thân dần khuất bóng tre buồn
Nghe nỗi nhớ lớn dần lên dáng mẹ
Hình ảnh cha trong xứ sở xa nguồn...
(Thư Cho Mẹ, MĐTT - trang 45-46)

.

Một bài thơ khác của Thành Tôn cũng rất buồn, bài "Đầy Tháng Con" nơi trang 38-41). Bài này gồm 7 đoạn, mỗi đoạn 4 câu. Nơi đây, chúng ta trích ra bốn đoạn thơ đầu:

.
Một tháng ra đời điều gì con thấy
Điều gì con nghe con khóc con cười
Cha ở phương xa mặt trời thức dậy
Cha ở phương xa súng nổ ngậm ngùi
.
Con sinh ra đời nhà thương giải phẩu
Nhà thương dành cho cuộc chiến bây giờ
Tiếng con khóc hòa tiếng la tiếng ré
Anh cụt tay, chị què cẳng không ngờ...
.
Cùng giờ con sinh có nhiều người chết
Của viên đạn lạc, của trái bom rơi
Nghe quê hương ta uốn mình mỏi mệt


Cuộc chiến chôn vùi hai tiếng à ơi
.
Con mới bốn ngày cha đi nhập cuộc
Học bắn học đâm vào đúng tim người
Cuộc chiến mù lòa mắt bà nội khóc
Cuộc chiến xanh non cỏ mộ môi cười
(Đầy Tháng Con, MĐTT - trang 38-39)

.

Nỗi buồn của Thành Tôn không riêng của anh. Đó là phận người tại Việt Nam. Nhưng nhìn cho kỹ, cũng là phận người trên khắp thế giới. Những hư vỡ đó hiển lộ nơi nhiều quốc gia khác, trong các hình thức khác, cũng buồn như thế. Như ở Nam Hàn và Bắc Hàn, như ở Hoa Lục và Đài Loan, như ở Tây Đức và Đông Đức, và như ở các nước khác ở mức độ khác, với tên gọi khác. Và có khi mang tên thánh chiến ở Jerusalem, ở Mecca... Phải chăng, địa cầu này không có chỗ dung thân cho người có niềm tin dị biệt? Chúng ta hỏi, và lịch sử câm lặng.

 

Có một bài thơ của Thành Tôn rất nhiều khác lạ với giọng thơ truyền thống của anh. Một bài thơ rất là nổi loạn, nhan đề "Kẻ đào ngũ" nơi trang 148-149. Không chỉ thế, bài thơ cũng đầy những câu hỏi triết lý, khi tự nhìn mình trong gương và thấy hồ nghi, rằng ai vậy kìa. Rồi ngờ vực như có ai ẩn dạng trong hình hài này.
blank 
Như dường chúng ta gặp lại, vâng, một văn phong của Kinh Kim Cương, một phần nào là văn phong kiểu như --- thấy Như Lai không phải là Như Lai mới thật sự là thấy Như Lai. Hay, chỉ đơn giản rằng nhà thơ Thành Tôn đã đứng vào hàng ngũ phản chiến? Trích toàn văn bài thơ này như sau. 

.

Kẻ đào ngũ

Buổi sáng soi gương và đội mũ
Lòng đã hồ nghi khuôn mặt quen
Dấu vết riêng nào trên nhân dạng
Đã hằng hằng không tuổi tên
.
Chân bước ra đường luôn chạm mặt
Những bàng hoàng trên nhan diện ai
Sống nửa đời người chưa dám chắc
Chân dung ta trung thực bao phần
.
Nên nhiều lúc tâm thần chấn động
Một kẻ nào ẩn dạng, âm mưu
Hắn tà giáo hay giòng chính thống
Mặt đầm đầm đường nét hư vô
.
Những dội đập ngày đêm bấn loạn
Trán phẳng phiu dậy sóng muộn phiền
Thân chống bộ xương ròn hữu hạn
Hồn mang ảo giác kẻ tham thiền
.
Ngực sống đã mơ hồ nhịp đập
Tim trong tay kẻ lạ âm thầm
Cõi nào phân chia miền tranh chấp
Thân vô cùng ràn rụa mối thương tâm
.
Ta bắt gặp ngoài ta hình bóng
Những đường quen nét thuộc nghi ngờ
Kẻ đào ngũ lầm lì, ngập ngọng
Nhàn nhạt trong cơ thể hồ đồ
.
Kẻ đào ngũ, chính ta trong hắn
Ngực cơ hồ đập nhịp ai xa
(Kẻ đào ngũ, MĐTT, trang 148-149)

.

Một bài thơ rất buồn của Thành Tôn có nhan đề là "Nghìn năm sa mạc" nơi trang 62-63. Bài thơ này có vẻ đẹp rất mực kinh điển, khi mô tả dòng thời gian cuốn trôi trên các triền cát sa mạc, nơi một "người nằm xuống giữa vô cùng sa mạc / Chiếc hồn thơ bé bỏng ghé nơi nào"...  Toàn văn bài thơ như sau.

.

Nghìn năm sa mạc


Người nằm xuống hoang vu hồn sỏi đá
Có nghe chăng lời nói hắt hiu này
Kẻ ở lại nhìn đời  e thẹn mặt
Nên vô cùng mỏi mắt cánh chim bay
.
Còn một chút buồn vươn lên cỏ mọc
Một chút hồn thất lạc phố tình xưa
Thấy gì khác hơn giọng cười tiếng khóc
Chợt bâng khuâng xanh vầng mắt giao mùa
.
Một năm đó còn gì trong cỏ mộ
Tình đã đi ai kẻ nhớ về thăm
Còn âm hưởng bước chân mòn mấy phố
Cũng ngậm ngùi như hơi thở xa xăm
.
Người nằm xuống giữa vô cùng sa mạc
Chiếc hồn thơ bé bỏng ghé nơi nào
Ai thắp khói cho bóng chiều râm mát
Để canh trường thao thức mấy vị sao
.
Còn nhớ gì khi mùa xuân tìm đến
Khi tình yêu đánh thức giấc nghìn năm
Làm chút nắng vàng che dòng mắt thẹn
Nghe hoang vu hồn sa mạc yên nằm
(MĐTT - trang 62-63)

.

Bài thơ của Thành Tôn nhan đề "Hồi Âm" được nhiều người ưa thích, hẳn là vì gắn liền với cảm xúc của những năm trong thập niên 1960s và đầu thập niên 1970s.Bài thơ có những hình ảnh rất buồn: ngày anh đi, buổi chia ly, thuyền nan quay lái (lìa bến), tiễn người đi, say hải hồ, nhắn về, ôn lại, chừ là kỷ niệm, tang thương, không còn vết tích, đang bôn ba, lên đường, rượu tao phùng, anh có buồn khi người ấy sang ngang... Toàn văn bài thơ như sau.

.

HỒI ÂM

Ngày anh đi, tôi vẫn còn bé dại
Chỉ biết cười thôi, dù buổi chia ly
Nhưng vẫn nhớ, khi thuyền nan quay lái
Dòng sông xanh dậy sóng tiễn người đi
.
Anh say hải hồ, tôi mê học hỏi
Tình cảm chúng mình nào đã...tàn phai
Lời tiếc thương anh nhắn về thăm hỏi
Bắt trí tôi ôn lại tháng năm dài
.
Ừ nhỉ, ngày xưa, cái gì lưu luyến
Dòng sông xanh. Trăng thắm. Lũy tre làng
Bến nước đò ngoan, núi chờ mây quyện
Pháo đỏ, rượu nồng...Giỗ, Tết xênh xang
.
Tất cả ngày xưa, chừ là kỷ niệm
Bến Trâu Dầm, cầu Bà Đội... tang thương
Vì bởi thời gian một lòng quyết chiếm
Cả chúng mình. Cả bướm. Cả muông chim
.
Nào Bích, nào Ngân, nào Hà, nào Tố
Đã không còn vết tích của ngày xanh
Mà lại Ngọc Bích, Thu Hà... rất ngộ
Đang bôn ba trên mấy nẻo kinh thành
.
Và những Đào tong, Thi gầy, Hải móm
Cũng lên đường dẹp loạn giữ quê hương
Như anh biết tre tàn măng sẽ nhóm
Câu hát: À ơi... vẫn quyện trong sương
.
Chưa rượu tao phùng đã nhiều ngây ngất
Khi ngày xưa sống dậy ở trong tôi
Tiếng hát ru con, ru tình thứ nhất
Tiếng quê hương hay tiếng nói cuộc đời
.
Tôi phục tài anh, ngày xưa, còn nhớ
Và mối tình gắn bó với quê làng
Muốn ngỏ đôi lời, nhưng sao vẫn ngại
Anh có buồn khi người ấy sang ngang?
(Hồi Âm, MĐTT, trang 34-37)

.

Bài thơ "Hồi Âm" của Thành Tôn được nhạc sĩ Nhật Ngân phổ nhạc. Và trình bày qua giọng ca của ca sĩ Thu Vàng, trong video sau, dài 6:37 phút:
 

https://youtu.be/QVO0XZ_nZi8 

.

Khi trang sách được gấp lại, điều chúng ta còn nhớ rằng, thơ Thành Tôn là những dòng chữ làm đẹp cho cuộc đời, bất kể rằng thơ ông có làm cho chúng ta buồn, bất kể rằng đó là những hình ảnh hư vỡ được thi sĩ đưa ra để lay động chúng ta, để mọi người cùng nhận ra những nỗi bất toàn của cuộc đời này.

Phan Tấn Hải

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhà văn Phạm Quốc Bảo trong tuần qua vừa ấn hành tuyển tập Cuốn Lên Bức Mành. Một tác phẩm ghi lại những suy nghĩ của một người đang giữa lứa tuổi 80s từ hải ngoại về những gì còn lưu giữ sau một đời làm báo và viết truyện. Từng trang chữ của ông là cô đọng những cảm xúc của một người không tự cho mình sống một ngày nào mà không nghĩ tới quê nhà. Tuyển tập nhiều bài viết Cuốn Lên Bức Mành gồm ba phần: Hồi ức, Tản mạn, Thơ. Nơi đây, chúng ta gọi ấn phẩm này là cuốn sách sau 50 năm, vì Phần 2 còn được tác giả ghi là: Nửa Thế Kỷ Ngoái Lại. Thực tế, chiều dài của sách là hơn một thế kỷ rưỡi, vì có kể về ông ngoại tác giả là cụ Bùi Văn Giảng (1871-1934). Với chiều dài thời gian như thế, và với cảm xúc của thời điểm 50 năm, tác phẩm của Phạm Quốc Bảo có những trầm lắng rất là tịch mịch của lịch sử. Nơi đây chúng ta sẽ giới thiệu một số điểm trong tuyển tập.
Khi đọc được khoảng một phần ba quyển hồi ký “Việt Nam của con – Việt Nam của cha”, trong tôi thôi thúc mãnh liệt một suy nghĩ: đã đến lúc tôi cũng nên ngồi xuống để viết một quyển sách của chính mình trước khi quá trễ, hay nói đúng hơn là trước khi đầu óc tôi bắt đầu quên lãng nhiều cột mốc, nhiều câu chuyện, đặc biệt là nhiều cảm xúc đã từng có trong tôi, từng xảy ra trong đời tôi, kể từ lúc đặt chân đến đất nước này, nơi vừa gần gũi lại vừa lạ lẫm với tôi cho đến tận bây giờ.
“Việt Nam Của Con, Việt Nam Của Cha” (nguyên bản ‘My Vietnam, Your Vietnam’) không chỉ là tự truyện của cha và con, kể lại hành trình đi tìm nguồn cội của tác giả, Christina Võ, mà còn là cách cô “hòa giải” – chữa lành vết thương giữa hai thế hệ – giữa cô và người cha, ông Nghĩa Võ, một bác sĩ quân y VNCH, cũng là đồng tác giả.
Không rõ do một cơ duyên nào mà ba người ấy – ba nhà thơ nữ, ba tâm hồn, ba định mệnh, ba trải nghiệm, ba cuộc đời, ba ngọn suối nguồn thơ ca lại rủ nhau về hợp lưu tụ hội trong một tuyển thơ đặc sắc, hiếm có...
Tác giả của cuốn sách này, Bác sĩ Ngô Thế Vinh, là một trong những nhân vật hàng đầu trong đời sống văn học ở Nam Việt Nam trong thời kỳ Việt Nam Cộng hòa, và đã từng quen biết với tất cả những nhân vật mà ông phác thảo. Bác sĩ Vinh là bác sĩ chuyên ngành nội khoa tại một Trung Tâm Y Khoa Long Beach, Nam California. Ông cũng là một tác giả không biết mỏi mệt, với các tác phẩm bao gồm tiểu thuyết, các sách bình luận văn hóa (như cuốn này) và các bài tường trình khảo sát. Đặc biệt, ông đã đích thân thực hiện chuyến đi điền dã theo suốt chiều dài 4.800 km của sông Mekong và đã viết hai cuốn sách nói về sự tồn vong của con sông này, một con sông lớn của thế giới và là mạch sống của hơn 70 triệu người sống dọc theo hai bờ con sông và nơi Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Người Hát là tập thơ đầu tiên của Bùi Mai Hạnh. Một tập thơ đặc sắc. Một trong những chủ đề là những quan tâm xã hội được nhìn dưới khía cạnh trữ tình, sự bình đẳng, tự do, và các mối quan hệ giữa người và người. Thơ chị không trừu tượng, không có những ý tưởng tổng quát, mà chứa đầy sự kiện, các chi tiết. Có một truyền thống văn hóa và tinh thần ở đó, trong những bài thơ có tính hiện đại và đương đại của chị. Thơ Bùi Mai Hạnh trực tiếp mô tả, trong khi hàm chứa những yếu tố triết lý lặng lẽ. Mối quan hệ của chị với người khác, trong tình bạn, trong tình yêu, là những mối quan hệ sâu đậm, mạnh, khó khăn. Tất cả các đề tài đều có thể có mặt: sự chống trả quyết liệt đối với số phận, sự đề kháng xã hội, sự sợ hãi và hèn yếu, tất cả có mặt trong thơ Hạnh.
"Bạt" của thi sĩ Đỗ Hồng Ngọc cho tập thơ của ba người...
Một ngày đầu thu, ngồi viết đôi trang về thơ của ba nữ lưu thời nay, sao bỗng thấy lòng xúc cảm lạ thường. Như ngày nào khi dạo chơi trong khu vườn Gitanjali bỗng gặp lại bông siêu ly thuở còn mơ mộng. Như ngày nào khi hoàng hôn xuống lái xe qua cây cầu cao ở Baton Rouge bỗng thấy vầng trăng lồng lộng trên sông. Hay như cách đây hơn mười năm, khi đi chơi vùng biển Laguna bỗng gặp lại người xưa - đầu đội nón rộng vành, mang kính đen, ngồi dưới bóng dù, tay lật xem thơ Tôi Cùng Gió Mùa. Vậy đó. Xin mời bạn đọc theo dõi những trang sau đây viết về ba nhà thơ nữ: duyên, Lê Chiều Giang và Nguyễn Thị Khánh Minh. Ô, lần đầu tiên ba nhà thơ nữ họp mặt nhau trong cùng một tập thơ. Một cuộc hội ngộ tuyệt đẹp...
Những Ngày Thơ Ấu của Võ Phú là cánh cửa mở ra thế giới tuổi thơ, tựa một bản giao hưởng của nỗi nhớ, nhưng cùng lúc chính là tiếng vọng của văn học Việt Nam hải ngoại, vốn từ lâu vẫn luôn phải đối diện với những câu hỏi không dễ trả lời: Chúng ta viết gì? Viết cho ai? Và viết bằng ngôn ngữ nào?
Tạp chí Ngôn Ngữ, trong thời gian qua đã hân hạnh thực hiện được chín tuyển tập, tương đối đầy đủ về chín tác giả nhưng toàn là phái nam. Lần này là lần đầu tiên, một bàn tay hoa trong văn học nghệ thuật Việt Nam, dành cho Ngôn Ngữ vinh hạnh này: nữ sĩ Nguyễn Thị Khánh Minh...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.