Hôm nay,  

Dịch giả Kim Vu in tuyển tập: Bản dịch 8 truyện Phan Nhật Nam

23/05/202500:00:00(Xem: 758)
1 PNN Sach The Sound of a suffering

Bìa trước của tuyển tập “The Sound Of A Suffering Land.

 
Có những cách để tưởng niệm 50 năm ngày Miền Nam tự do sụp đổ. Trong khi những cuộc hội thảo, chiếu phim, nhạc hội... do cộng đồng tổ chức sôi nổi khắp những tuần lễ trong tháng 4/2025, nhà văn Phan Nhật Nam và dịch giả Kim Vu có một cách lặng lẽ hơn: Dịch giả Kim Vu trong tháng Tư 2025 đã ấn hành tác phẩm tiếng Anh “The Sound Of A Suffering Land” – tuyển tập bản dịch 8 truyện của nhà văn Phan Nhật Nam.

Như thế là vừa trọn 50 năm tưởng niệm ngày Miền Nam sụp đổ. Khi trao sách tặng cho nhà báo Phan Tấn Hải bên hè phố, nơi một tiệm cà phê vắng người ở phố Bolsa, dịch giả Kim Vu cho biết ông đã xúc động khi dịch truyện, bút ký của Phan Nhật Nam – đó là những dòng chữ của một người yêu nước chân thật bằng cả thân mạng, không tiếc gì khi bước vào cuộc nội chiến để tìm hòa bình cho quê nhà.

Như thế là gần hai năm, khi tính tới tác phẩm Anh dịch trước đó của Kim Vu, khi ông trình làng tại Viện Việt Học hồi tháng 7/2023 tuyển tập Anh dịch do ông thực hiện truyện của 3 nhà văn Phạm Thành Châu, Phạm Tín An Ninh, Phan Nhật Nam nhằm cho thế hệ trẻ gốc Việt chỉ đọc dược tiếng Anh hiểu được sự thật lịch sử tại quê nhà Việt Nam, nơi cha anh của họ đã rời nước ra đi.

2 Phan Nhat Nam_bia sau

Phan Nhật Nam dưới nét vẽ của họa sĩ Trương Đình Uyên.


Dịch giả Kim Vu cho biết, tuyển tập “The Sound Of A Suffering Land” gồm bản dịch 8 truyện của Phan Nhật Nam bây giờ có thể tìm mua trên Amazon.

Nơi bìa sau của tuyển tập là ký họa chân dung Phan Nhật Nam qua nét vẽ của họa sĩ Trương Đình Uyên, và đoạn văn tiếng Anh, nơi đây xin dịch như sau: “Súng đạn nào có thể giải quyết được nỗi đau mà tôi đã chứng kiến và sống chung trong hơn nửa thế kỷ, nếu không muốn nói rằng súng đạn (bản thân chúng là công cụ chiến tranh) cũng đã góp phần (đóng góp phần rất lớn) vào sự hủy diệt con người, ở quê hương Việt Nam của tôi cũng như trên toàn thế giới - Do đó, viết là cần thiết cho cuộc sống của chính tôi (về vật chất và tinh thần) theo một cách cụ thể - Không có chữ viết, tôi có thể sống bằng cách nào khác? Mặc dù bản thân tôi (cũng) hiểu rất rõ: "Ngôn từ và chữ viết sẽ không dẫn đến đâu cả!" Ngài Phan Sào Nam cũng đã thấy rằng: "Lập thân tối hạ thị văn chương." (Con đường thấp kém nhất để lập thân là qua văn chương.).”

Đoạn văn tiếng Anh nơi bìa sau đó là trích từ trang 11, trong phần Introduction do Phan Nhật Nam viết và Kim Vu dịch. Khi bạn lên mạng Amazon tìm sách “The Sound Of A Suffering Land” bạn sẽ thấy dịch giả Kim Vu giới thiệu tuyển tập này bằng tiếng Anh, dịch từ ngôn ngữ Phan Nhật Nam, và phóng viên xin phép dịch lại như sau:

“Vâng! Tôi đã nghe đồng bào tôi kêu như thế trong thời kỳ Mậu Thân ở Huế, năm 1968; Người dân kêu "Anh lính Cộng hòa ơi, cứu dân với!" khi chạy khỏi trận chiến ở An Lộc, năm 1972... Người dân kêu cứu chiến binh Cộng hòa khi di tản từ Tây Nguyên về Tuy Hòa, Bình Định, Nha Trang, hồi tháng 3 năm 1975.

Và sau năm 1975, trên Biển Đông, trên đường vượt biên ra khỏi đất nước, tất cả người dân Việt Nam (bất kể Bắc/Nam) trở thành một loại người mạt hạng, bị lưu đày khắp các trại tị nạn Đông Nam Á, ở Hồng Kông, đối mặt với hải tặc và lính Khmer Đỏ. Và bây giờ ở Biển Đông, đối mặt với "những con tàu không được công nhận".

Người dân Việt Nam bị khinh miệt và nguyền rủa chỉ vì một điều đơn giản: Người dân Việt Nam không còn quân đội để bảo vệ họ - Quân đội Việt Nam Cộng hòa đã bị tan vỡ cùng với Hy vọng Việt Nam. Tôi luôn tin tưởng vững chắc vào Chính nghĩa của những người lính miền Nam mặc dù đã chiến bại vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Thảm họa từ số phận đen tối của toàn thể Dân tộc Việt Nam không phải vì những người lính VNCH không phải là những chiến sĩ giỏi.

Quay lại vấn đề tôi đã từng viết trong "Dựa Lưng Nỗi Chết", thì "Cái Chết" (có thật, luôn gặp phải và chịu đựng trực tiếp) đã dạy cho tôi điều gì? Vậy nếu chúng ta phải rơi vào hoàn cảnh của " Dựa Lưng Nỗi Chết", mỗi người phải tự tìm cách cứu mình, không ai có thể chỉ cho người khác. Ngày 7 tháng 9 năm 1981, khi giai đoạn kiên giam lần thứ hai bắt đầu, bước vào phòng giam an ninh tối đa dài hai mét, cao ba mét và rộng một mét, sự sống chỉ có thể tìm thấy qua lỗ thông hơi hình chữ nhật 30x20 cm có lưới sắt bên trên.

Nhiệt độ trong phòng là 40 độ vào mùa hè, và phòng giam thì lạnh lẽo vào mùa đông vì nhà tù nằm trên dãy núi đá vôi của Tỉnh Thanh Hóa. Nếu ruồi muỗi bay vào, chúng sẽ rớt xuống mặt đất vì áp suất trong phòng quá cao! Người tù ngồi bất động trên chiếu, mắt cá chân bị kẹp chặt vào một cái cùm sắt hình chữ U. Anh ta đại tiện và tiểu tiện vào một ống tre; hai ly hạt bắp cứng (loại dùng để nuôi gia súc) và hai ly nước lạnh mỗi ngày!


Ngồi trong bóng tối, dần dần mất hết mọi giác quan và suy nghĩ trong những năm 1982, 83, 84... Đôi khi đầu như bốc khói, hoặc sôi trong lửa vì buồn bã và lo lắng... Làm sao người ta có thể sống sót?! Làm sao từng giây có thể trôi qua? Đúng vậy, từng giây, không phải từng phút, hay từng giờ! Nhưng dần dần nó trôi qua như những từ gọi là THƠ được viết trên đầu ngón tay tôi.. "Thật sự tôi không thể sống sót. Một giờ thậm chí, nói gì đến một năm... Không phải một năm mà là mười năm. Đau khổ và đau đớn vô tận... Nhưng con người có thể Sống vì có Thiên đường!" Đúng vậy, có Con người vì có Thiên đường!” (Hết phần giới thiệu trên Amazon)

Dịch giả Kim Vu cũng là một nhà thơ và là nhà nghiên cứu Phật học. Vào tháng 12/2019, Kim Vu đã thực hiện buổi ra mắt sách tại San Jose, Bắc California. Hôm đó, trong nhóm 5 tác phẩm ra mắt có 2 tác phẩm viết bằng Anh ngữ được chú ý nhất là: “Buddhist Teachings in a Nutshell” (có thể dịch là: Khái Lược Về Phật Pháp), và “Western Thought in a Nutshell” (có thể dịch: Khái Lược Về Tư Tưởng Tây Phương). Cả hai tác phẩm tiếng Anh này đều đang phát hành trên mạng Amazon toàn cầu.

3-PTH_-Kim-Vu

Từ phải: dịch giả Kim Vu và phóng viên Phan Tấn Hải.


Dịch giả Kim Vu còn được các bạn đồng môn Chu Văn An thời cuối thập niên 1950s biết với tên khai sanh là Vũ Mạnh Phát, sanh quán ở Hà Nội, di cư vào Sài Gòn năm 1954. Như thế, sau các năm học trung học Chu Văn An (Sài Gòn), cậu học sinh Vũ Mạnh Phát được học bổng USAID sang Hoa Kỳ học ngành kiến trúc từ các năm 1959-1964. Sau khi tốt nghiệp kiến trúc tại đại học Catholic University of America (tại thủ đô Washington, DC) năm 1964, Vũ Mạnh Phát về nước làm việc trong ngành Kiến trúc và thiết kế Đô Thị. Năm 1973, ông được một học bổng nghiên cứu chuyên ngành phát triển đô thị tại viện nghiên cứu Institute of Social Studies in The Hague (Hòa Lan). Năm 1974, về nước. Trong khi làm việc chuyên ngành kiến trúc và thiết kế đô thị, thời gian trước 1975, ông đã tham dự các Hội nghị quốc tế tại Thái Lan, Malaysia, Singapore, Đài Loan, Nhật Bản v.v... Sau khi định cư tại Hoa Kỳ năm 1991 theo diện thân nhân bảo lãnh, ông làm việc trong cương vị thông ngôn về y khoa tại bệnh viện Stanford Hospital and Clinics, cho tới năm 2016. Sau khi về hưu, ông dọn từ Bắc California về Quận Cam, Nam California – thời gian toàn thời để đọc, viết, làm thơ, dịch, nghiên cứu.

Trong khi đó, nhà văn Phan Nhật Nam có một tiểu sử rất dài. Nơi đây xin tóm lược theo một bài viết của nhà văn Ngô Thế Vinh.

Phan Nhật Nam cũng là bút hiệu, Rốc là tên gọi ở nhà; sinh ngày 9/9/1943, tại Phú Cát, Hương Trà, Thừa Thiên, Huế; nhưng ngày ghi trên khai sinh 28/12/1942, chánh quán Nại Cửu, Triệu Phong, Quảng Trị.

1954-1960: tiểu học Mai Khôi, Huế; Saint Joseph, Đà Nẵng; trung học Phan Chu Trinh, Đà Nẵng.

1963-1975: tốt nghiệp Khoá 18 Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, gia nhập binh chủng Nhảy Dù, qua các đơn vị Tiểu Đoàn 7, 9, 2, và Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù; Tiểu Khu Bà Rịa Long An; Biệt Động Quân; Ban Liên Hợp Quân Sự Trung Ương 4 và 2 Bên.

1975-1989: tù cải tạo 14 năm qua các trại giam Miền Bắc với 2 đợt kiên giam ( 2/1979 đến 8/1980; 9/1981 đến 5/1988)

1990-1993: ra tù bị quản chế và chỉ định cư trú tại Lái Thiêu, Bình Dương Miền Nam, cũng là thời gian Nam được gần gũi với nhà báo Như Phong.

1993: sang Mỹ định cư, thời gian đầu ở San Jose, rồi qua Washington D.C, Houston, Minnesota, Colorado…

2005: hiện sống ở Nam California.

Phan Nhật Nam có nhiều tác phẩm ấn hành tại Việt Nam trước năm 1975, và tại hải ngoại sau khi sang Hoa Kỳ định cư. Một số tác phẩm của Phan Nhật Nam đã được dịch sang tiếng Anh và tiếng Pháp.

Nhà văn Ngô Thế Vinh nhận định: “Bút ký chiến tranh Phan Nhật Nam được tái bản nhiều lần ở Miền Nam trước 1975 và cả ở hải ngoại sau này, riêng cuốn Mùa Hè Đỏ Lửa được tái bản tới lần thứ 30 do nhiều nhà xuất bản khác nhau và cũng hiếm khi tác giả được các nhà xuất bản thanh toán nhuận bút.”
Và bây giờ, tuyển tập Anh dịch “The Sound Of A Suffering Land”  có một giá trị lớn, để thế hệ trẻ biết về một quê nhà và một lịch sử đang bị bỏ quên. Sách bán với giá 18 USD trên mạng Amazon, và bạn có thể tìm mua ở đây:
Sách này cũng có thể là một món quà tặng tuyệt vời cho những người trẻ muốn tìm hiểu về một thời rất đau khổ của quê nhà. Tuy chỉ cách vài thập niên, nhưng các nỗi đau khổ và đau đớn rất thực, được Phan Nhật Nam viết bằng ngòi bút rất mực yêu thương và đau đớn khi kể về đồng bào của ông, và được Kim Vu dịch cẩn trọng và tài hoa.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Suy nghĩ về thơ, Đặng Toản đã viết: “ ... Thơ chấp nhận mọi sự đẽo gọt và không đẽo gọt, từ vi tế đến thô ráp, từ dân gian đến bác học và các thành phần tham gia vào chiếu thơ có mặt phu xe và tể tướng, gã ăn mày và đại phú hộ...” ( Nghĩ về thơ, trang 258). Do đó sẽ càng thú vị hơn, khi ta bắt gặp những hình ảnh thơ, những câu thơ với những ngôn ngữ “nghề nghiệp” song cũng đầy mới lạ và ấn tượng của “gã thợ tiện’ bên những tia laser cắt... ống sắt!
“Ai là tiểu thuyết về sự mất tích của bản thể, của những con người, trên sân khấu của đời sống như một viện bảo tàng. Ai ngẫu nhiên được hình thành như bản tẩu pháp (fugue) về hành trình trốn chạy, lưu vong, tỵ nạn, hoá thân của con người trong thời hiện đại. Ai là sự kết hợp các hình thức sáng tạo trong tiểu thuyết như phim ảnh, tường thuật, truyện lồng trong truyện (metafiction), để tạo một không gian cho các ý niệm phản chiếu lẫn nhau, trong màn triển lãm nghệ thuật sắp đặt (installation) dùng ý tưởng. làm chất liệu. Ai mở ra sân chơi cho trò chơi ngôn ngữ đang cần khai phá thêm và khai quật lại. Ai là một thử nghiệm về thời gian để người đọc tự tìm kiếm câu trả lời cho họ.”
Tập truyện ngắn “Chuyện cũ phù dung trấn” ( CCPDT), là tác phẩm thứ 16 của Tiểu Lục Thần Phong ( TLTP ). Sách dày 362 trang, gồm 36 truyện ngắn, với những suy tư trăn trở về cuộc sống nơi quê nhà và cả nơi xứ xa, mà tác giả hiện đang sinh sống. Thấm đẫm những hiện thực của cuộc sống và gắn kết cả chuyện đời, chuyện đạo, gây ấn tượng và những suy ngẫm cho bạn đọc...
Tôi đã yêu mến và ngưỡng mộ gần như tất cả các nhân vật được viết trong tuyển tập này. Trong đó có những người là bậc thầy vô cùng cao tột của tôi: Thầy Trí Siêu Lê Mạnh Thát, và Thầy Tuệ Sỹ. Những vị khác về nhiều mặt cũng là những bậc thầy của tôi, nghĩa là tôi nhận thấy có phương diện nào đó để học từ họ, nhờ cơ duyên thân cận hoặc nhờ gặp trong làng văn chương. Thí dụ, Giáo sư Trần Huy Bích là đỉnh cao về Hán học, về nghiên cứu thơ và cổ văn, với những nghiên cứu về nhà thơ Vũ Hoàng Chương cực kỳ thơ mộng và thâm sâu.
Cuốn sách này, như chính tựa đề, Đường về thủy phủ, đã báo hiệu điều gì đó huyễn hoặc. Vì vậy, bạn đọc nếu chờ đợi một câu chuyện tiểu thuyết thông thường có đầu đuôi, có lô-gic, có sự tình chặt chẽ hợp lý, xin gấp sách lại, hãy tìm đọc một cuốn khác. Là một tác phẩm siêu hư cấu không có chủ ý đáp ứng những quy củ tiểu thuyết thông thường, Đường Về Thủy Phủ của Trịnh Y Thư là một tập hợp của ba câu chuyện, ba toa riêng lẻ của một chuyến tàu, vận hành trên cùng một đường rầy thiên lý, theo chiều dài của một giai đoạn lịch sử chiến tranh tanh nồng, nơi hành khách là những nhân vật bị ném lên tàu, vất vưởng chuyển động trên một trục cố định, dốc toàn bộ sức lực và trí tưởng tượng gắng tìm cho mình một lối thoát, hay theo tác giả, tìm một lối về.
Thật sự, ở một mức độ nào đó, người đi vào quyển sách đều có thể nhận ra ít nhiều, ở chỗ này hay chỗ khác, qua những góc quay khác nhau, với những mức độ đậm nhạt khác nhau, tất cả các dự cảm vừa được trình bày ở trên. Nhưng nếu nghĩ đây là một cuốn tiểu thuyết lịch sử, hay một tiểu thuyết chiến tranh, chúng ta sẽ ngộ nhận tác giả. Tiểu thuyết này, với tính chất và cái nhìn đặc thù của tác giả, không hề có mục đích ấy. Lịch sử có ở đó, cùng với khuôn mặt kinh hoàng, gian trá, điên đảo, và tàn bạo của chiến tranh. Nhưng đây là một cuốn tiểu thuyết chỉ lấy lịch sử làm một cái nền với những gam màu rất mờ nhạt, và, dĩ nhiên, nổi bật lên vẫn là một màu đỏ nhờ nhờ, điên quái, bất tín và bất-khả-tín, khi thì chỉ ươn ướt, chỗ lại đặc quánh những vết thương làm mủ của lịch sử..
Tập sách nhắc đến tiệm phở gần đầu đường Nghĩa Phát, vừa từ đường Bành Văn Trân rẽ vào, là tiệm của bác Huyền, người cùng giáo họ Long Cù, xứ Trực Chính với thày u tôi, là những gia đình công giáo theo các cha di cư vào Nam. Đó là tiệm phở đầu tiên nằm trong giáo xứ Nghĩa Hoà. Được sinh ra và lớn lên trong giáo xứ này, tôi muốn chia sẻ thêm về những quán phở ở Nghĩa Hoà. Sau phở bác Huyền, vào đầu thập niên 1970 có một tiệm phở nữa cũng trên đường Nghĩa Phát gần đầu nhà thờ. Còn theo đường Nghĩa Hoà phía cuối nhà thờ, đi vào đến ngã tư ông Nghìn có tiệm phở của ông giáo Chung.
Đây là tác phẩm thứ 5 trong chuỗi sách góp phần tư duy và thảo luận cho tiến trình dân chủ hóa, được viết và giới thiệu bởi tác giả Đào Tăng Dực. Xin trân trọng giới thiệu tác phẩm mới nhất của tôi nêu trên. Đây là tác phẩm thứ 5 trong chuỗi sách góp phần tư duy và thảo luận cho tiến trình dân chủ hóa.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.