Hôm nay,  

Giới thiệu tuyển tập “KÝ 3” của Đinh Quang Anh Thái

23/06/202217:09:00(Xem: 4368)

Giới thiệu tuyển tập “KÝ 3”

của Đinh Quang Anh Thái

 

Phan Tấn Hải

 
blank

Tuyển tập “KÝ 3” của Đinh Quang Anh Thái đã phát hành gần đây. Tuyển tập gồm những bài ghi lại tiếng nói của nhiều người có liên hệ tới dòng chảy lịch sử của quê nhà, và phần lớn là những người được gọi là dị kiến, hay những ý kiến nằm ngoài khu vực chính thống của nhà nước CSVN.
 

Đọc trang Mục Lục là có thể thấy những âm vang ngoài vòng chính thống, nhưng lại chính là tiếng nói chân thực phù hợp với suy nghĩ của đa số đồng bào.

- Vĩnh biệt bác Bùi Diễm;

- Dan Southerland, những phút cuối cùng của VNCH;

- Nguyễn Tú - "Phạm Xuân Ẩn làm gián điệp gây tai hại vô cùng cho đất nước".

- Nguyễn Thừa Du và Trần Thụy Ly - Biến động mi62n Trung 1965

- Lê Thị Ý - Ngày mai đi nhận xác chồng

- Tống Văn Công - Bước qua lời nguyễn

- Tô Hải - Hồi ký của một thằng hèn

- Thái - Bình

- Tiêu Dao Bảo Cự - Nửa đời nhìn lại

- Bùi Minh Quốc - Tiếng thét trong thơ

- Sinh hoạt văn học Miền Nam trước 1975 trong mắt: Võ Đắc Danh, Tuấn Khanh, Thúy Hà, Tống Văn Công, Nguyễn Thanh Bình, Trần Đĩnh, Kim Chi, Nguyễn Thị Hậu, Dương Thu Hương

- Nam Phương - Lời bạt.

.

Tuyển tập dày 248 trang. Trong Lời Ngỏ, Đinh Quang Anh Thái viết, trích: "KÝ 3 là một nén hương của tác giả thành kính tưởng nhớ những người đã khuất và cũng là tấm lòng đối với những người còn sống ẩn hiện trong cuốn sách."

Để độc giả có thể nhìn sơ lược nội dung sách, nơi đây chúng ta sẽ trích tiếng nói của vài tác giả được tác giả ĐQAT phỏng vấn.

.

Trường hợp nhạc sĩ Tô Hải (1927-2018), người đã viết cuốn "Hồi ký của một thằng hèn" – cũng là một điển hình cho nhiều trí thức gia nhập Đảng CSVN và rồi, khi tỉnh thức, đã rời bỏ Đảng CSVN. Nhạc sĩ Tô Hải tức Tô Đình Hải sinh năm 1927 tại Hà Nội. Bắt đầu học chữ và học nhạc tại các trường soeur Hà Nội, và sau khi đậu tú tài I chương trình Pháp, Tô Hải gia nhập Vệ Quốc Đoàn rồi trở thành đảng viên đảng Cộng Sản. Từ năm 1947, tên tuổi Tô Hải được nhiều người biết đến với các ca khúc Nụ Cười Sơn Cước, Trở Lại Đô Thành… Tô Hải viết nhiều, trên dưới 1,000 bản nhạc, nhưng như chính lời ông thú nhận, “hầu hết sáng tác của tôi là do ‘hèn’ nên nội dung chỉ là hát lên hát xuống các khẩu hiệu tuyên truyền.” Năm 1960, Tô Hải bỏ đảng Cộng Sản, ra khỏi quân đội. Sau năm 1975, ông vào Sài Gòn và năm 1986 về hưu non. Khi tác giả ĐQAT phỏng vấn, nhạc sĩ Tô Hải lúc đó là 83 tuổi. Cụ từ trần 7 năm sau đó.

Nơi đây chúng ta trích vài đoạn nơi trang 118-119 của tuyển tập “KÝ 3” khi nhạc sĩ trả lời tác giả Đinh Quang Anh Thái:

 

“ĐQAT: Thông thường, khi viết hồi ký, người ta có thói quen nói tốt về mình; riêng ông, ông lại viết rằng, đây là Hồi Ký Của Một Thằng Hèn; tại sao ạ?

Nhạc sĩ Tô Hải: Cuốn hồi ký này, chủ yếu tôi chỉ viết về sự hèn của tôi thôi. Hèn của tôi vì sống trong một xã hội mà suốt cả cuộc đời mình – cho tới khi về hưu – tôi mới dứt ra được. Trước kia, ăn lương của đảng và nhà nước, mình cứ phải viết những điều mình không muốn viết để tồn tại. Tôi cũng giống rất nhiều anh em khác, cuối đời mới thấy mình cần phải soi lại mình. Hành động soi lại mình này tôi đã làm từ 15-20 năm nay nhưng tôi không dám đưa ra ở trong nước, cho nên phải đưa ra ở ngoài nước. Nếu tại Việt Nam được tự do sáng tác, tự do xuất bản thì tôi in ở trong nước chứ tôi đâu phải đưa ra ngoài. Tới hôm nay, sách chưa ra mắt độc giả mà báo chí tại Việt Nam đã chửi tôi rồi. (Ho sù sụ). Tôi xin lỗi dạo này tôi hơi yếu nên hay ho và nói năng không lưu loát.

 

ĐQAT: Đọc hồi ký của ông, độc giả thấy ông vào lúc tròn đôi mươi đã nhìn lá cờ đỏ sao vàng như biểu tượng niềm tin của dân tộc, nhưng sau này ông nói rằng, cụ thân sinh ra ông từng bảo ông rằng “theo Cộng Sản mà thất bại trở về thì cụ thân sinh ra ông sẽ tống ra ngoài cửa”. Hẳn rằng lúc bấy giờ, cụ thân sinh ra ông đã ý thức được sự tác hại của Cộng Sản đối với đất nước?

Nhạc sĩ Tô Hải: Bố tôi lúc bấy giờ làm trong ngành bưu điện, nên ông có nhiều sách báo ở bên Tây gửi sang thành ra ông đọc được nhiều và tôi cũng đọc theo. Hai bố con chúng tôi có hai quan điểm rất đối lập nhau. Lúc bấy giờ, không chỉ riêng tôi, mà cả Vua Bảo Đại và các nhà cách mạng lão thành cũng đều thấy cái ông Nguyễn Ái Quốc sau đổi tên thành Hồ Chí Minh là người yêu nước chứ chẳng phải là Cộng Sản gì cả. Nhất là ông Hồ lại còn giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương và thành lập Chính phủ Liên hiệp với sự tham gia của nhiều người không Cộng Sản. Bố tôi thì bảo “mày bị lừa” và cũng chính câu nói của ông bố tôi đã đẩy tôi đi theo ngọn cờ đỏ sao vàng. Nói thật, đó là tự ái của tôi lúc bấy giờ mới 18 tuổi. Thế cho nên tôi tiếp tục theo Cộng Sản. Cho tới thời kỳ Cải cách Ruộng đất thì tôi vỡ mộng và tôi bắt đầu viết..." (ngưng trích)

.

Trong khi đó, trưởng thành trong khói lửa Miền Nam, có một nhà thơ độc đáo. Bài viết của ĐQAT về “Lê Thị Ý: Tác giả ‘ngày mai đi nhận xác chồng’” đã cho thấy một hình ảnh khác của cuộc chiến. Lúc đó là cuối thập niên 70, trong bối cảnh chiến tranh lên cao điểm, ca khúc “Tưởng Như Còn Người Yêu” do Phạm Duy phổ nhạc từ thơ của Lê Thị Ý. Nhà thơ Lê thị Ý xuất thân trong một gia đình văn nghệ. Người anh lớn là nhà thơ Vương Đức Lệ, người chị lớn là nhà văn Phượng Kiều và cô em gái là nhà văn Lê Thị Nhị. Lê Thị Ý làm thơ rất sớm, từ lúc còn học trung học và viết đều hơn khi theo gia đình vào Nam năm 1954. Tháng 11 năm 2010, nhân dịp từ California đi Virginia, tác giả Đinh Quang Anh Thái nói chuyện với nhà thơ Lê Thị Ý.

 

Trích nơi trang 71-72 của “KÝ 3” khi nhà thơ trả lời ĐQAT về duyên khởi bài thơ:

“Nhà thơ Lê Thị Ý: Lúc đó là năm 1970, tôi sống tại Pleiku. Thành phố nhỏ bé này vào giai đoạn chiến tranh khốc liệt, chỉ thấy lính, vợ lính, xe tăng, xe Jeep; hầu như không thấy gì khác nữa. Nhà tôi ở gần nhà xác của quân đội. Tôi chứng kiến cảnh biết bao các bà đi nhận xác chồng. Tôi thấy đàn bà, con nít đến lật cái poncho quấn xác để nhìn mặt người thân, cảnh đó khiến tôi đau đớn không chịu nổi. Rõ ràng nỗi đau của những người có chồng chết trận là nỗi đau của chính mình. Thành thật, tôi vô cùng xúc động và chính tôi sống bằng hình ảnh những người vợ lính, vợ sĩ quan khóc bên xác chồng. Nỗi buồn đau đó là nỗi buồn đau của mình..." (ngưng trích)

 

Bài thơ đó nơi đây, chúng ta ghi lại nửa sau bài thơ “Thương Ca 1”, với 10 dòng thơ cuối bài thơ (trang 74-75):

"...Dài hơi hát khúc thương ca

Thân côi khép kín trong tà áo đen

Chao ơi thèm nụ hôn quen

Đêm đêm hẹn sẽ chong đèn chờ nhau

Chiếc quan tài phủ cờ màu

Hằn lên ba vạch đỏ au phũ phàng

Em không thấy được xác chàng

Ai thêm lon giữa hai hàng nến trong?

Mùi hương cứ tưởng hơi chồng

Nghĩa trang mà ngỡ như phòng riêng ai.”"

Trong khi giọng thơ Lê Thị Ý rất buồn, thơ của Bùi Minh Quốc rất mạnh mẽ. Tuyển tập “KÝ 3” ghi lại ngôn ngữ của nhà thơ này qua bài “Bùi Minh Quốc: tiếng thét trong thơ” nơi trang 189:

 

“Nhà thơ Bùi Minh Quốc đã nhiều lần uất ức gào lên trong thơ của ông:
 

Tổ quốc hỡi tình chi đau đớn mãi

Con yêu người, ngục tối nuốt trời xanh

Ôi tổ quốc vào tay quỷ dữ

Tiếng hát tự do uất nghẹn khắp thân mình.

 

và Bùi Minh Quốc cũng đã thét lên:

 

Đảng… chỉ tay,

Quốc Hội… giơ tay,

Mặt Trận… vỗ tay,

Chính Phủ… ra tay,

Doanh nghiệp nhà nước… ngửa tay,

Công an… còng tay,

Tội phạm… bắt tay,

Báo chí… chùn tay,

Trí thức… phẩy tay,

Đồng đội… cụt tay,

Quan chức… đầy tay,

Dân… trắng tay.

 

Vài dòng tiểu sử Bùi Minh Quốc được Đinh Quang Anh Thái ghi lại như sau, nơi trang 190:

“Bùi Minh Quốc còn có bút hiệu là Dương Hương Ly, sinh năm 1940 tại Hà Tây. Ông làm thơ ngay từ thủa nhỏ và nổi tiếng rất sớm. Bùi Minh Quốc và vợ là Dương Thụy Xuân Quỳ thuộc vào thế hệ của những người gắn liền với “huyền thoại” mà giới lãnh đạo cộng sản Hà Nội gọi là “các văn nghệ sĩ hy sinh cho cuộc kháng chiến chống Mỹ,” nhưng thực chất chỉ là cuộc xâm chiếm miền Nam, đưa cả nước quy về một mối dưới chế độ toàn trị của đảng cộng sản. Bà Dương Thụy Xuân Quỳ cũng là một nhà thơ nổi tiếng. Bà đã hy sinh trong chiến tranh, để lại một người con gái tên là Dương Ly Hương. Bùi Minh Quốc dùng tên con gái làm bút hiệu của mình.”

 

Thế hệ trẻ nghĩ gì? Tuấn Khanh là một người cầm bút nổi tiếng trong thế hệ trung niên, bản thân cũng là một nhạc sĩ, nhận định về văn học Miền Nam trước 1975 nơi trang trang 210-211, trích:

 

“…Văn hóa miền Nam bị giằng xé rách rưới, đứng giữ đống bùn lầy, vẫn mỉm cười kiêu hãnh, bất chấp đạo quân chiến thắng năm 1975 đã trút mọi căm thù lên bằng cách đốt, cấm, bắt cả những người viết sách đi tù.

Tôi được nghe rằng sau năm 1990, có một chỉ đạo từ Hà Nội, rằng những gì mà miền Nam đã có, nguồn lực của chế độ mới có thể thay thế, thì phải ra sức thay, để nhấn chìm văn hóa miền Nam vào quên lãng. Chẳng hạn như sách dịch: cuốn Hoàng Tử Bé, bản gốc Le Petit Prince của nhà văn Pháp Antoine De Saint-Exupéry do Bùi Giáng dịch được thay bằng bản mới là Hoàng Tử Nhỏ. Bố Già, nguyên tác The Godfather của Mario Puzo, bản dịch của Ngọc Thứ Lang, thì được thay bằng bản mới là Ông Trùm. Đỉnh Gió Hú, nguyên bản của Emily Bronté do Nhất Linh chuyển sang Việt ngữ thì thay bằng Đồi Gió Hú…

Rõ ràng, có một chủ trương muốn thay thế và cào bằng đối với văn học miền Nam, nhưng có vẻ như sức sống của một giai đoạn văn chương và tri thức của hai nền Cộng Hòa vẫn đứng vững. Những ấn bản được nhặt lên từ bùn lầy, bị xô giật rách rưới, vẫn tỏa sáng kỳ lạ đến tận hôm nay...." (ngưng trích)

 

Có nhiều thông tin trong tuyển tập “KÝ 3” của Đinh Quang Anh Thái để đọc, để quan tâm, để suy nghĩ. Đây là một tác phẩm nên đọc để thấy rằng có rất nhiều điều bất bình tại quê nhà, nơi có nhiều tiếng nói bây giờ chỉ được nghe ở hải ngoại.

 

Độc giả có thể mua sách qua mạng:

https://www.barnesandnoble.com/

với Keywords: “Ky 3” hoặc “Dinh Quang Anh Thai”.

 

Cũng có thể mua qua nhà sách Tự Lực:

14318 Brookshurt St.
Garden Grove CA 92843
Phone: 888-204-7749

.

 

 

 

 

 




Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Như thế, tựa sách không thôi, chúng ta đã hiểu là tác giả đang dùng một hình thức nghệ thuật ngôn ngữ để chuyển tải những gì mình muốn chia sẻ và truyền đạt bằng sự hiểu biết, kinh nghiệm sống và hạnh nguyện của người. Mà ở đó là những triết lý mang âm hưởng Phật giáo nhằm giải quyết vấn đề nhân sinh quan và vũ trụ quan của nhân loại.
Để kết luận bài điểm sách và điểm về Tác giả của quyển sách nầy, tôi xin dùng câu tục ngữ của người Nga để giới thiệu đến quý vị như sau: “Hạnh Phúc là những gì người ta đang có chứ không phải là những gì người ta đi tìm”. Vậy quý vị, nếu ai đó muốn có hạnh phúc thì cũng nên đọc sách nầy để tâm mình được an và thân được như ý.
Tóm lại, Tập thơ Âm Tuyết Đỏ Thời Gian của Nguyễn Lương Vỵ miêu tả hầu như trọn vẹn bao xúc cảm ký ức quy về một thực tại trường cửu trong 360 câu thơ, cùng 15 bài thơ ngắn như một dòng sống luân lưu tuôn trào tiếng kêu bi thiết vang vọng, và màu sắc biểu tượng trong suốt hành trình cuộc đời. Tập thơ Âm Tuyết Đỏ Thời Gian cũng là di sản cuối của nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ.
Thật là ấm cúng, trong cại lạnh tháng Tư Chicago, trong không gian của dịch bịnh COVID-19, tôi vừa nhận được một sáng tác mới của Phạm Xuân Tích, một bạn văn từ Paris gửi đến. Mở ra thấy đó là tâp thơ “CÒN ĐÓ”, gồm những bài thơ với niềm tin yêu sâu sắc về đời.
Bằng những lời thơ bình dị, không làm dáng và ý thơ đậm đà cùng lối gieo vần nhẹ nhàng, nhà thơ Hoàng-Phong-Linh Võ Đại Tôn đã trải rộng nỗi lòng của Ông với Quê Hương, với đồng đội, với bằng hữu. Ông cũng dành cho vợ trái tim nồng ấm và truyền cho con ý chí bất khuất. Và trên tất cả, Hoàng-Phong-Linh cho người đọc thấy rõ sự vi diệu của niềm tin.
Hoa Cỏ Bên Đường là tác phẩm chuyển tải nội dung những mẫu chuyện về chân thiện mỹ trong đời sống xã hội. Khi “Gõ Cửa, Cửa Sẽ Mở”, như khi “Mở lòng, lòng thanh thản”; Hoa Cỏ Bên Đường là tác phẩm đề cao tiếng cười, bởi vì “Hãy Cho Nhau Tiếng Cười”, cũng bởi vì tiếng cười là nhu cầu, là niềm tin yêu của đời sống
Nội dung Tuyển Tập HOA CỎ BÊN ĐƯỜNG rất đa dạng, phong phú. Ngoài việc những nhân vật có tiếng tăm viết giới thiệu tác giả Kiều Mỹ Duyên, như nhà văn Huy Phương, văn thi sĩ Chinh Nguyên, nhà báo Mặc Lâm, và nhà báo Nguyễn Lệ Uyên, tuyển tập thể hiện một sự bao gồm rộng lớn, sự quan tâm đối với xã hội về mọi mặt, mọi vấn đề,
Khi đọc bản thảo Giọt Nước Nghiêng Mình của Nguyễn Văn Sâm tôi thấy mình bồi hồi cảm động như đang được tắm lại trong một dòng sông cũ, nơi phát nguyên dòng văn chương hiện đại của Việt Nam. Chính từ chỗ phát nguyên này, trong thế kỷ 20 tôi đã đọc Hồ Biểu Chánh, Phi Vân, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Lê Xuyên…, họ cùng nhiều bậc tiền bối nữa đã làm thành nền văn học miền Nam với tính chất riêng của nó.
“Vòng Đai Xanh” là cuốn sách thứ hai mà tôi nhận được từ nhà văn Ngô Thế Vinh gửi tặng, cuốn kia là “Mặt Trận Ở Sài Gòn,” cả hai đều được xuất bản vào năm 2020 tại Hoa Kỳ bởi NXB Văn Học Press và Việt Ecology Press. Tất nhiên, nhà văn Ngô Thế Vinh không chỉ có chừng ấy sách mà theo danh sách liệt kê trong “Vòng Đai Xanh” thì ông có tới ít nhất 17 cuốn sách bằng tiếng Anh, tiếng Việt hoặc song ngữ Việt-Anh được xuất bản từ năm 1964 ở trong nước và tại hải ngoại cho đến năm 2020. “Vòng Đai Xanh” là cuốn tiểu thuyết đã đoạt giải thưởng Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc vào năm 1971 tại Sài Gòn. Theo nhà văn Ngô Thế Vinh trả lời phỏng vấn của tạp chí Bách Khoa số 370 vào ngày 1 tháng 6 năm 1972, thì lúc đầu ông muốn “viết một cuốn sách, không phải tiểu thuyết, sưu khảo về vấn đề cao nguyên,” nhưng vì để tránh rắc rối kiểm duyệt nên ông phải chuyển sang viết tiểu thuyết để có thể được phép xuất bản. Và có lẽ vì vậy mà trong cuốn tiểu thuyết này tên của các nhân vật cũng không phải là tên thật
Cảm động nhất và bùi ngùi nhất là phóng sự của Kiều Mỹ Duyên về người trung đội trưởng nghĩa quân quận Chương Mỹ tỉnh Chương Thiện năm 1971. Sự việc được trung tướng Ngô Quang Trưởng lúc ấy là Tư Lệnh Quân Đoàn IV kể lại cho người nữ ký giả biết.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.