Hôm nay,  

Ra mắt sách “Những Người Ở Lại” Tác giả ghi lời kể từ các tù cải tạo

27/04/202520:22:00(Xem: 4464)

Ra mắt sách “Những Người Ở Lại”

Tác giả ghi lời kể từ các tù cải tạo
 

WESTMINSTER (PTH/VB) – Buổi ra mắt sách “Những Người Ở Lại” của tác giả LU Thuy hôm Chủ Nhật 27/4/2025 tại Westminster cũng là dịp để tác giả tâm sự về lý do vì sao viết sách này, cũng là dịp để nghe anh Võ Văn Thiệu, một sinh viên du học tại Ý từ trước năm 1975, kể về không khí thân cộng của các sinh viên từ Miền Nam VN du học tại Pháp, và cũng là dịp để nghe một cựu trung úy Hải quân VNCH kể chuyện trình diện học tập cải tạo, rồi vượt ngục về Sài Gòn rồi lên ghe vượt biên.
 

Sách “Những Người Ở Lại” có dòng tiểu đề là “Ký Ức Bị Lãng Quên Về Những Trại Cải Tạo Ở Việt Nam” được dịch từ nguyên tác tiếng Pháp của tác giả LU Thuy, một du học sinh tại Pháp từ trước 1975, và có thân phụ là một đại tá VNCH về hưu sau ba tháng trong trại cải tạo đã kiệt sức, được chở về nhà thương Cộng Hòa để chờ chết, và hình ảnh thân phụ nằm chết bi thảm được gia đình gửi sang Pháp và đã in sâu vào trí nhớ của cô nữ sinh viên du học bên trời Âu tới giờ, và cô viết sách nhằm xóa đi hình ảnh này trong trí óc của tác giả.

 

blank

Hình trên: Người đứng bên trái là tác giả LU Thuy, người đứng bên phải là anh Võ Văn Thiệu kể rằng anh du học ở Ý từ trước 1975, nhận thấy các du học sinh VNCH tại Châu Âu phần đông là thân cộng cho tới nhiều năm sau 1975 mới tỉnh ngộ, nhưng không người thân cộng nào dẫn vợ con về Hà Nội định cư.

  

Được mời lên nói chuyện, nhà hoạt động cộng đồng Võ Văn Thiệu kể rằng bản thân anh là du học sinh tại Ý đi từ Miền Nam VNCH trước 1975. Anh nói rằng không khí thân cộng trong các sinh viên tại Pháp du học từ Sài Gòn thấy rất rõ, cho thấy tuyên truyền của CSVN rất quyến rũ, mạnh mẽ. Tuy nhiên, sau khi Miền Bắc chiếm trọn Miền Nam, niềm tin vào CSVN của các cựu du học sinh ở Pháp không còn nữa, và ngay cả nhiều năm sau, cho tới bây giờ, anh cũng không thấy cựu sinh viên thân cộng nào ở Pháp dẫn vợ con về Hà Nội sống với “niềm vui” dưới bóng cờ Mác-Lê-Hồ.
 

Người MC chương trình là Mai Đông Thành nói rằng anh không có kỷ niệm nào với chế độ CS, vì may mắn đi kịp trước khi CS vào chiếm Sài Gòn ngày 30/4/1975 nhưng bằng hữu của anh sau này kể lại những kinh nghiệm rất là kinh hoàng.
 

Một cựu Trung úy Hải quân – trong sách “Những Người Ở Lại” được tác giả LU Thuy ghi ẩn danh là Alpha-Omega – kể về chuyện anh bị kẹt lại sau ngày 30/4/1975, phải đi trình diện cải tạo, vì tin vào tuyên truyền là chỉ đi có 10 ngày rồi về, nhưng rồi đã trải qua nhiều năm, qua các trại tù Trảng Lớn, Long Khánh, Long Giao, Kà Tum, Phước Long. Vị trung úy này trốn tù từ trại Phước Long năm 1980, về được Sài Gòn nhờ giấy tờ giả do vợ mua và lén gửi vào dưới đáy lon thức ăn. Và từ Sài Gòn, nhờ kinh nghiệm Hải quân trong các đơn vị ở các tàu tác chiến sông và biển, nên được một chủ ghe móc nối đi hướng dẫn lái ghe vượt biển từ Long Xuyên. Anh kể về những cái chết của các bạn tù, và số phận những người tù rất mực bi thương.


 

Trong các khán giả, cũng có một người lên kể chuyện tù cải tạo. Tất cả những mẩu chuyện tù cải tạo đều bi thảm. Sách dày 140 trang, không thấy ghi giá bán. Ấn bản tiếng Việt do tác giả xuất bản tại Hoa Kỳ năm 2023, bốn năm sau ấn bản tiếng Pháp tại Paris. Tranh bìa là tranh sơn dầu của tác giả. Trình bày bìa & trang trong do Nguyễn Đình Hiếu thực hiện. Độc giả muốn tìm mua ấn bản Việt (hoặc ấn bản Pháp), xin liên lạc về tác giả LU Thuy: [email protected]
 

blank 

Trong chương Lời Người Viết, nơi trang XIII, tác giả ghi rằng: “Alexandre Soljenitsyne là một văn sĩ người Nga đã bị tủ ở trại Goulag trong vòng 8 năm vì đã chỉ trích Staline trong lá thư ông viết cho một người bạn. Tôi đọc và so sánh các nhà tù Goulag và nhà tù cải tạo Việt Nam thấy quá giống nhau, cũng lò cộng sàn, cũng lối xây tu, cũng cách quản chế, đánh đập, bắn giết dã man, cũng đi lao động nặng nhọc trong cơn đói. Chỉ khác nhau là các trại Goulag quá lớn rộng, quá đông người nên số người chết tính ra nhiều hơn và thời tiết lạnh, khắc nghiệt hơn. Nhưng tại sao trên thế giới lại ít nói hay không nói gì về "trại tù cải tạo Việt Nam"?”
 

Nơi Chương Đoạn Kết, trang 137-138, tác giả LU Thuy viết, trích:
 

“Tôi viết không phải vì oán ghét, căm thù vì dưới chế độ nào cũng là đất nước của tôi, cùng là dân tộc Việt Nam. Viết ra chỉ để nhắc lại một sự thật, một quãng đời của những sĩ quan, nhân viên chính phủ, những người đã phải trả nợ vì đã cầm súng để bảo vệ phần đất nước mình, đã làm việc với chính quyền cũ để xây dựng đất nước và đã trở thành người có tội từ ngày thay đổi chế độ.

Viết cho mọi người dân trên thế giới biết rằng đã có rất nhiều cảnh bất công, nhiều trại tù ghê rợn, kinh hoàng trên đất nước Việt Nam mà trên thế giới không biết đến.

Viết để vinh danh những chiến sĩ Quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh cho tổ quốc, những sĩ quan, những công chức hành chánh, những đức Cha, đức Thầy tuyên úy đã chịu nhiều khổ ải trong tù.

Viết để ca tụng những người mẹ, người vợ, người em gái đã hết lòng lo cho người thân ở trong tù, lo cho gia đình trong cơn hoạn nạn.

Viết để nhắc lên một phần sự thật trong lịch sử Việt Nam mà giới trẻ hiện tại dường như không biết đến vì chuyện đã xa xưa hay vì sự thật đã bị xuyên tạc.

Viết cho tôi, cho anh chị em, cho gia đình, dòng họ, và cho những đứa con, cháu, sinh trưởng ở nước ngoài biết được một phần sự thật của lịch sử Việt Nam.” (ngưng trích)
 

Đúng như thế. Sách này được viết để ghi lại sự thật, không phải vì căm thù. Chuyện thật, người thật. Những đau đớn được kể lại, không phải vì hờn oán, mà để chữa lành.

 



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hiền Như Bụt là tác phẩm biên khảo về Phật Giáo, bút ký pha lẫn văn chương nhưng không phải do một tu sĩ hay một nhà nghiên cứu Phật học sáng tác mà do một trí thức khoa bảng yêu mến và quý trọng Đạo Phật viết ra. Nó là sản phẩm của 20 năm, từ 1992-2012. Hạ Long Bụt Sĩ tên thật là Lưu Văn Vịnh.
Nhân vật trong tiểu thuyết tôi là những khả thể vô thức của chính tôi (Kundera). Bởi cuối cùng là để vượt ra, vượt qua: một cái đường biên mong manh mà mênh mông đó. Ở đó, Bên kia đường biên “bản ngã” của riêng tôi chấm dứt (trang 19). Nghĩa là đạt đến vô ngã / non-self (không phải no-self). Cái đường biên đó do chính tác giả tạo ra cho mình và loay hoay tìm lối thoát, càng tìm lối thoát càng bị quấn chặt. Chỉ vượt ra, vượt qua (Gaté, gaté…paragaté…) đường biên khi có được trí Bát nhã (Prajna) thấy được ngũ uẩn giai Không, mới “độ nhất thiết khổ ách”.
Đây là một tác phẩm lịch sử từng giai đoạn của Quân Lực Việt Nam Công Hòa. Nhà biên soạn sử học Hồ Đắc Huân, đã miệt mài trong bao nhiêu năm, cô đọng, trau chuốt, giao tiếp với nhiều nguồn tin tức khác nhau, cộng với hành trình từ bản thân, là chứng nhân lịch sử; đã cho ra mắt một tác phẩm để đời!
Có Tự ngã không? Đức Phật dạy: Có nghiệp được tạo tác, có quả dị thục được lãnh thọ, nhưng không có người tạo tác, không có người lãnh thọ. Phật giáo không cho có cái gọi là Tự ngã, tiểu ngã, đại ngã, linh hồn, nhưng tin có “Nghiệp mang theo” để “trả quả”. Cái gì mang Nghiệp theo? Thần thức tái sinh, luân hồi?
Cuốn Hồi Ký dày khoảng 500 trang, khổ lớn, với phần biên tập và thiết kế sách của Trịnh Y Thư, phần thiết kế bìa của Nina Hòa Bình Lê, và gồm 7 phần chính, ngoài Lời Ngỏ và Kết Từ. Phần I, tác giả nhớ lại thời còn ở Hà Nội trước năm 1954 với bố mẹ và anh chị; Phần II kể về chuyến di cư đầu đời một thân một mình của cô gái 16 tuổi từ Hà Nội vào Sài Gòn, lập gia đình và những cơ duyên đưa đẩy vào ngành nghệ thuật điện ảnh Miền Nam trước năm 1975; Phần III kể chuyện lưu vong ra hải ngoại trong biến cố ngày 30 tháng 4 năm 1975, làm người tị nạn Việt Nam đầu tiên tại Canada, với hai bàn tay trắng làm lại cuộc đời và những phấn đấu gian lao cực khổ để bước vào sân khấu điện ảnh lộng lẫy của Hollywood; Phần IV thuật lại những chuyện vinh quang trong sự nghiệp điện ảnh và những buồn vui của bản thân, gia đình, và những mối giao tình với bạn bè trong cuộc sống tại Hoa Kỳ; Phần V kể chuyện “đứng dậy, đứng thẳng, đi tới” sau những lần vấp ngã để trở thành nhà diễn thuyết khắp thế giới,
“Nước hiện cũng ở quanh tôi, quanh anh chị. Nó ở ngay trang sách này mà ta đang đọc. Ở trong màn hình tôi đang nhìn, trong bàn phím máy computer tôi đang gõ, ở trong cái áo cái quần tôi đang mặc, trong bức tranh trên trên tường…, kể cả trong cái đinh đóng trên đó. Tôi không thấy nó vì tôi ít khi chịu khó nhìn kỹ để thấy nó. Nhưng có điều bây giờ tôi biết rất rõ rằng: không có nước thì cái thằng tôi này cũng không có; không có nước thì cũng không có anh, không có chị ngồi đó mà đọc trang sách này. Cái bàn, cái ghế, cái cây, cái đám mây ngoài kia… cũng không tuốt.” (tr. 158) Không chỉ có vậy đâu mà còn nhiều nữa. Văn Công Tuấn, trong tác phẩm “Chớ Quên Mình Là Nước,” đã dẫn người đọc từ chuyện đất và nước trong đời thường, trong khoa học, trong văn chương tới chuyện đất và nước trong lãnh vực quốc gia dân tộc, từ chuyện đất và nước trong triết học với bản thể và diệu dụng của nước, bước sang chuyện lấy cơ duyên đất và nước để nói đến chuyện thực chứng tâm linh để giác ngộ và giải thoát
Tôi cố ý tìm tòi và trích dẫn nhiều ý kiến của Nguyễn Hiến Lê và cảm nhận về từng tác phẩm Nguyễn Hiến Lê của nhiều tác giả khác. Tôi rất mong được cung cấp càng nhiều thông tin, sự kiện, chi tiết liên quan đến tác phẩm càng tốt, để tiện việc tham khảo và nghiên cứu về Nguyễn Hiến Lê.
Kể từ tập thơ Vườn Dĩ Vãng ấn hành năm 1972 của thời trai trẻ phục vụ trong quân ngũ nơi quê nhà cho đến tác phẩm Hồi Sinh thực hiện năm 2020 nhưng vì trục trặc kỹ thuật, ấn hành năm 2021 nơi xứ người, nhà thơ Trần Văn Sơn đã trải qua cuộc hành trình từ những bài thơ xuất hiện trên trang báo ở Sài Gòn vào giữa thập niên 60 cho đến thời điểm ấn hành tuyển tập nầy với thi ca hơn nửa thế kỷ.
Trong tuyển tập “Vằng Vặc Một Mảnh Lòng,” có nhiều bài rất giá trị mà cũng khó tìm, như bài “Lời Giới Thiệu Luận Án Tiến Sĩ Phật Học Đại Học Bihar - Ấn Độ, 1961 Của Tỳ Kheo Thích Minh Châu: So Sánh Kinh Trung A Hàm Chữ Hán và Kinh Trung Bộ Chữ Pali do vị Viện Trưởng, Tân Tòng Lâm Nalanda S. Mookerjee viết vào ngày 23 tháng 3 năm 1964, và Thích Nữ Trí Hải dịch Việt. Hoặc như bài “Huyền Trang Và Công Cuộc Thỉnh Kinh Vô Tiền Khoáng Hậu Của Nhân Loại” của học giả Nguyễn Hiến Lê, và bài “Như Lai Vô Sở Thuyết” của kịch tác gia Vũ Khắc Khoan.
Khi đọc bài “Bên Bờ Tử Sinh” của nữ văn sĩ Đỗ Dung thuộc Ban Điều Hành diễn đàn Minh Châu Trời Đông, tôi cũng thấy lòng nhẹ nhàng theo, tác giả bị căn bệnh hiểm nghèo bác sĩ nói chỉ sống thêm vài năm nữa, mà nhờ nhiếp tâm thiền định, chẳng những thoát khỏi cây cầu sinh tử mà tác giả còn sống yêu đời và trở thành một nhà văn với nhiều sáng tác đi vào lòng độc giả.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.