Hôm nay,  

Ra mắt sách “Những Người Ở Lại” Tác giả ghi lời kể từ các tù cải tạo

27/04/202520:22:00(Xem: 4483)

Ra mắt sách “Những Người Ở Lại”

Tác giả ghi lời kể từ các tù cải tạo
 

WESTMINSTER (PTH/VB) – Buổi ra mắt sách “Những Người Ở Lại” của tác giả LU Thuy hôm Chủ Nhật 27/4/2025 tại Westminster cũng là dịp để tác giả tâm sự về lý do vì sao viết sách này, cũng là dịp để nghe anh Võ Văn Thiệu, một sinh viên du học tại Ý từ trước năm 1975, kể về không khí thân cộng của các sinh viên từ Miền Nam VN du học tại Pháp, và cũng là dịp để nghe một cựu trung úy Hải quân VNCH kể chuyện trình diện học tập cải tạo, rồi vượt ngục về Sài Gòn rồi lên ghe vượt biên.
 

Sách “Những Người Ở Lại” có dòng tiểu đề là “Ký Ức Bị Lãng Quên Về Những Trại Cải Tạo Ở Việt Nam” được dịch từ nguyên tác tiếng Pháp của tác giả LU Thuy, một du học sinh tại Pháp từ trước 1975, và có thân phụ là một đại tá VNCH về hưu sau ba tháng trong trại cải tạo đã kiệt sức, được chở về nhà thương Cộng Hòa để chờ chết, và hình ảnh thân phụ nằm chết bi thảm được gia đình gửi sang Pháp và đã in sâu vào trí nhớ của cô nữ sinh viên du học bên trời Âu tới giờ, và cô viết sách nhằm xóa đi hình ảnh này trong trí óc của tác giả.

 

blank

Hình trên: Người đứng bên trái là tác giả LU Thuy, người đứng bên phải là anh Võ Văn Thiệu kể rằng anh du học ở Ý từ trước 1975, nhận thấy các du học sinh VNCH tại Châu Âu phần đông là thân cộng cho tới nhiều năm sau 1975 mới tỉnh ngộ, nhưng không người thân cộng nào dẫn vợ con về Hà Nội định cư.

  

Được mời lên nói chuyện, nhà hoạt động cộng đồng Võ Văn Thiệu kể rằng bản thân anh là du học sinh tại Ý đi từ Miền Nam VNCH trước 1975. Anh nói rằng không khí thân cộng trong các sinh viên tại Pháp du học từ Sài Gòn thấy rất rõ, cho thấy tuyên truyền của CSVN rất quyến rũ, mạnh mẽ. Tuy nhiên, sau khi Miền Bắc chiếm trọn Miền Nam, niềm tin vào CSVN của các cựu du học sinh ở Pháp không còn nữa, và ngay cả nhiều năm sau, cho tới bây giờ, anh cũng không thấy cựu sinh viên thân cộng nào ở Pháp dẫn vợ con về Hà Nội sống với “niềm vui” dưới bóng cờ Mác-Lê-Hồ.
 

Người MC chương trình là Mai Đông Thành nói rằng anh không có kỷ niệm nào với chế độ CS, vì may mắn đi kịp trước khi CS vào chiếm Sài Gòn ngày 30/4/1975 nhưng bằng hữu của anh sau này kể lại những kinh nghiệm rất là kinh hoàng.
 

Một cựu Trung úy Hải quân – trong sách “Những Người Ở Lại” được tác giả LU Thuy ghi ẩn danh là Alpha-Omega – kể về chuyện anh bị kẹt lại sau ngày 30/4/1975, phải đi trình diện cải tạo, vì tin vào tuyên truyền là chỉ đi có 10 ngày rồi về, nhưng rồi đã trải qua nhiều năm, qua các trại tù Trảng Lớn, Long Khánh, Long Giao, Kà Tum, Phước Long. Vị trung úy này trốn tù từ trại Phước Long năm 1980, về được Sài Gòn nhờ giấy tờ giả do vợ mua và lén gửi vào dưới đáy lon thức ăn. Và từ Sài Gòn, nhờ kinh nghiệm Hải quân trong các đơn vị ở các tàu tác chiến sông và biển, nên được một chủ ghe móc nối đi hướng dẫn lái ghe vượt biển từ Long Xuyên. Anh kể về những cái chết của các bạn tù, và số phận những người tù rất mực bi thương.


 

Trong các khán giả, cũng có một người lên kể chuyện tù cải tạo. Tất cả những mẩu chuyện tù cải tạo đều bi thảm. Sách dày 140 trang, không thấy ghi giá bán. Ấn bản tiếng Việt do tác giả xuất bản tại Hoa Kỳ năm 2023, bốn năm sau ấn bản tiếng Pháp tại Paris. Tranh bìa là tranh sơn dầu của tác giả. Trình bày bìa & trang trong do Nguyễn Đình Hiếu thực hiện. Độc giả muốn tìm mua ấn bản Việt (hoặc ấn bản Pháp), xin liên lạc về tác giả LU Thuy: [email protected]
 

blank 

Trong chương Lời Người Viết, nơi trang XIII, tác giả ghi rằng: “Alexandre Soljenitsyne là một văn sĩ người Nga đã bị tủ ở trại Goulag trong vòng 8 năm vì đã chỉ trích Staline trong lá thư ông viết cho một người bạn. Tôi đọc và so sánh các nhà tù Goulag và nhà tù cải tạo Việt Nam thấy quá giống nhau, cũng lò cộng sàn, cũng lối xây tu, cũng cách quản chế, đánh đập, bắn giết dã man, cũng đi lao động nặng nhọc trong cơn đói. Chỉ khác nhau là các trại Goulag quá lớn rộng, quá đông người nên số người chết tính ra nhiều hơn và thời tiết lạnh, khắc nghiệt hơn. Nhưng tại sao trên thế giới lại ít nói hay không nói gì về "trại tù cải tạo Việt Nam"?”
 

Nơi Chương Đoạn Kết, trang 137-138, tác giả LU Thuy viết, trích:
 

“Tôi viết không phải vì oán ghét, căm thù vì dưới chế độ nào cũng là đất nước của tôi, cùng là dân tộc Việt Nam. Viết ra chỉ để nhắc lại một sự thật, một quãng đời của những sĩ quan, nhân viên chính phủ, những người đã phải trả nợ vì đã cầm súng để bảo vệ phần đất nước mình, đã làm việc với chính quyền cũ để xây dựng đất nước và đã trở thành người có tội từ ngày thay đổi chế độ.

Viết cho mọi người dân trên thế giới biết rằng đã có rất nhiều cảnh bất công, nhiều trại tù ghê rợn, kinh hoàng trên đất nước Việt Nam mà trên thế giới không biết đến.

Viết để vinh danh những chiến sĩ Quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh cho tổ quốc, những sĩ quan, những công chức hành chánh, những đức Cha, đức Thầy tuyên úy đã chịu nhiều khổ ải trong tù.

Viết để ca tụng những người mẹ, người vợ, người em gái đã hết lòng lo cho người thân ở trong tù, lo cho gia đình trong cơn hoạn nạn.

Viết để nhắc lên một phần sự thật trong lịch sử Việt Nam mà giới trẻ hiện tại dường như không biết đến vì chuyện đã xa xưa hay vì sự thật đã bị xuyên tạc.

Viết cho tôi, cho anh chị em, cho gia đình, dòng họ, và cho những đứa con, cháu, sinh trưởng ở nước ngoài biết được một phần sự thật của lịch sử Việt Nam.” (ngưng trích)
 

Đúng như thế. Sách này được viết để ghi lại sự thật, không phải vì căm thù. Chuyện thật, người thật. Những đau đớn được kể lại, không phải vì hờn oán, mà để chữa lành.

 



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nguyễn Hưng Quốc cho rằng “Nhà thơ không làm ra chữ, chính chữ làm nên nhà thơ.” Vế thứ hai của bài thơ này thì có vẻ dễ hiểu, bởi vì chính người làm ra bài thơ thì mới được gọi là nhà thơ. Nhưng vế đầu của bài thơ thì không dễ hiểu tí nào cả, bởi vì “nhà thơ không làm ra chữ,” thì nhà thơ làm ra gì? Có lẽ chúng ta nên quay lại mật thất thứ hai trong đó ghi những bí quyết làm thơ thì chắc có câu trả lời. Đúng vậy, trong mật thất thứ hai, Nguyễn Hưng Quốc nói anh “hóa kiếp thành chữ,” và “nhập thể vào chữ.” Bởi thế, nhà thơ không còn đứng ngoài chữ để nói mình làm ra chữ. Nhà thơ là chữ. Chữ là nhà thơ. Và do vậy, nhà thơ họ Nguyễn mới nói “Bao giờ hắn cũng muốn viết một cái gì đó, nhưng chỉ khi hắn không viết, hắn mới thực là nhà thơ.”(649) Cao siêu! Đây quả là cảnh giới thượng thừa của nghệ thuật. Trong “909 Bài Thơ Ba Dòng” có nhiều điều khác mà Nguyễn Hưng Quốc cảm tác về tình yêu, chuyện vợ chồng, biển, sóng nước, mây, gió, trăng, mưa, mùa thu, lá vàng, nắng, hoa, sương đêm,
Đọc những truyện ngắn Trần Doãn Nho viết từ trước 1975 đến thời gian gần đây, có thể thấy anh sáng tác trong ý thức sâu sắc về thể loại và nghệ thuật viết truyện ngắn. Truyện của anh luôn có sự đầu tư công phu về ý tưởng, hình ảnh, ẩn dụ, chủ đề… lồng trong cấu trúc chặt chẽ của tổng thể, trong đó các yêu cầu về miêu tả, tường thuật, đối thoại, diễn tiến, tư tưởng giữ một tỷ lệ hài hoà và hữu hiệu.
Nội dung của 60 bài pháp được nữ sĩ Ryoun Jokan ghi chép lại trong suốt năm nhập thất (đại kết thất) 1690, trước khi Thiền Sư Bankei Yotaku viên tịch 3 năm, là những việc hỏi đáp giữa Thầy và trò, giữa Thiền Sư và võ sĩ đạo, giữa người mù và người sáng mắt, giữa chấp có và chấp không v.v… chung quy là Tâm ấy chẳng sanh và Tâm ấy chẳng diệt. Tâm ấy cũng còn gọi là Phật Tâm hay Tâm Phật không sanh, Tâm Phật không diệt.
“Đôi khi Chàng gần, đôi khi Chàng xa / Chàng vẫn ngồi đâu đó từ hôm qua / Cho đến hôm nay, và ngày mai nữa / Dòng sông vẫn đầy và trôi đi xa.”
Cầm trên tay tuyển tập nhiều tác giả viết về Tiếng Hát Thu Vàng vừa mới xuất bản tại California, Hoa Kỳ, mà chị Thu Vàng nhờ nhà văn và nhà báo Phan Tấn Hải mang đến tặng cho anh chị em trong Tòa Soạn Việt Báo, đọc qua mục lục tôi thấy có khoảng 40 nhà văn, nhà thơ, nhà giáo, nhà báo, nhạc sĩ và họa sĩ viết về tiếng hát của nữ ca sĩ Thu Vàng. Tôi nghĩ tiếng hát của nữ ca sĩ Thu Vàng đã thực sự chinh phục được cảm tình của nhiều người nghe, trong đó có tôi.
Đối với người dân Sài Gòn, Trường Trung Học Marie Curie là một cái tên rất quen thuộc, bởi vì ngôi trường lấy tên của nữ khoa học gia đoạt 2 giải Nobel Vật Lý và Hóa Học này là một trong những ngôi trường lâu đời nhất – thành lập vào năm 1918 – của Hòn Ngọc Viễn Đông. Nhưng có lẽ ít ai, trong đó có tôi, biết rõ về thân thế sự nghiệp và những phát minh khoa học kỳ diệu đã mang lại vô số lợi ích cho đời sống nhân loại, mà điển hình nhất sự phát minh ra chất phóng xạ Radium của bà.
Có những người làm gì cũng hay, viết gì cũng hay. Tôi luôn luôn kinh ngạc về những người như vậy. Họ như dường lúc nào cũng chỉ ra một thế giới rất mới, mà người đời thường như tôi có ngó hoài cũng không dễ thấy ra. Đỗ Hồng Ngọc là một người như thế. Đỗ Hồng Ngọc là một bác sĩ; dĩ nhiên ai cũng biết, bởi vì anh nổi tiếng hơn rất nhiều bác sĩ khác, và được báo chí phỏng vấn thường xuyên. Nhưng anh cũng nổi tiếng làm thơ hay từ thời sinh viên. Thơ của anh nhiều đề tài, có cả thơ Vu Lan, thơ tặng mẹ, thơ tình, thơ tặng em bé sơ sinh, thơ tặng bà bầu, và đủ thứ. Trong khi tôi đọc, thưởng thức, và thán phục các vần thơ tuyệt vời của anh, nhưng tận cùng thích nhất vẫn là đọc Đỗ Hồng Ngọc viết về Kinh Phật. Chính nơi lĩnh vực này, họ Đỗ viết gì cũng hay, viết ngắn cũng hay, viết dài cũng hay, viết về Thiền thở cũng hay, viết về ngũ uẩn giai không của Tâm Kinh cũng hay, viết về ưng vô sở trụ của Kinh Kim Cang cũng hay, viết về Kinh Pháp Hoa cũng hay, viết về Kinh Duy Ma Cật cũng hay. Và
Cả Trung Quốc, một cõi người đông như cỏ, mới có một tài năng thần kỳ như Bào Đinh, cắt thịt như gió xuyên qua lá, tưởng chừng là loạn đao, mà lại thứ tự lành nghề, đạt đến kỹ thuật cao, và nghệ thuật độc nhất vô nhị. Nhưng vài mươi năm sau, ông ta qua đời. Từ đó, không còn ai thừa kế. Tài năng vượt thời gian trở thành truyền thuyết. Về sau, biết bao nhiêu người vì truyền thuyết đã mơ tưởng tu luyện để tiến đến nghệ thuật kỳ tài. Vì không thể nào lưu truyền, tài năng cắt thịt không mang lại ích lợi chung là bao nhiêu.
“Tôi bảo cô em tôi, hoặc có thể nó bảo tôi, lại đây mình chơi trò cười nhé? Chúng tôi nằm sát nhau trên giường và bắt đầu trò chơi. Giả vờ, dĩ nhiên. Bắt phải cười. Cái cười buồn cười. Cái cười buồn cười đến nỗi nó khiến chúng tôi phải cười. Thế rồi tiếng cười thật sự ùa đến, cười điên dại, cười như nắc nẻ, hai chúng tôi như bị cuốn vào cơn triều cường khủng khiếp của cái cười. Cười phá lên từng tràng, cười hối hả, cười sằng sặc, cười không kềm hãm được, cười thỏa chí, cười tung hê, cười điên dại… Chúng tôi cười đến tận cùng của cái cười… Ôi, cười! Cười thích lắm, chẳng có gì thích bằng cười; cười là sống một cách sâu sắc.”
Tác giả Hồ Ngọc Bảo không có ý làm văn chương. Anh viết về cuộc đời của anh, cũng gần như cuộc đời của rất nhiều người dân mình. Anh kể từ chuyện thời thơ ấu ở Quảng Ngãi, chứng kiến những cuộc thanh toán Quốc-Cộng trong làng, được cha gửi vào học ở chủng viện Kontum, thi Tú Tài xong là vào Sài Gòn học bậc đại học, trải qua nhiều gian nan sau 1975, cùng với vợ và con nhỏ đi đường bộ vượt biên sang Lào nhưng bị bắt giữa rừng, vào tù, tới khi ra tù là buôn chợ trời rồi về làm ở nông trường, chuyển sang một hãng sành sứ, may gặp cơ hội vượt biên sang Canada định cư, làm việc ở hãng xưởng Canada, tới khi tóc bạc trắng xóa thì ngồi viết lại đời mình. Không phải là hồi ký về một cá nhân, nhưng là từ kinh nghiệm và cái nhìn của một người có cơ duyên trải qua nhiều diễn biến lịch sử.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.