Hôm nay,  

Đỗ Hồng Ngọc và Chuyện Hồi Đó

9/19/202500:00:00(View: 1837)
 
chueyn hoi do
Bìa sách "Chuyện hồi đó".
 
Khi giúp thực hiện tạp chí Ngôn Ngữ số đặc biệt Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc phát hành vào tháng 5-2024, tôi đã được Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc cho hay có nhà xuất bản và cả độc giả đề nghị ông viết “hồi ký”. Chẳng hạn như anh Nguyễn Hiền Đức, người độc giả đặc biệt quý mến anh, đã đánh máy và tặng lại bộ sưu tập những bài viết của ĐHN, có lần tỏ bày: “... tôi kính cẩn thưa trình với ông rằng tôi mong sớm được đọc Hồi ký của ông. Nhớ lại, ông đã nhiều lần “thúc hối” thầy mình là Nguyễn Hiến Lê viết hồi ký như André Maurois đã từng làm với Un ami qui s’appelait moi vậy. Trước nay tôi vốn thích đọc Hồi ký, và các cuốn hồi ký mà tôi thích nhất vẫn là cuốn của Nguyễn Hiến Lê, Đào Duy Anh, Quách Tấn, Trần Văn Khê…, và, chắc chắn sẽ rất thích Hồi ký Đỗ Hồng Ngọc. Tôi không dám nói sai lời và cũng như nhiều độc giả chí cốt của Đỗ Hồng Ngọc nóng lòng chờ đợi Hồi ký Đỗ Hồng Ngọc.”

Nhưng cuối cùng, ông đã không viết hồi ký, mà chọn cách viết “Chuyện Hồi Đó” được nói đến trong Chương 1, “là những  chuyện xưa, tích cũ, kể lại bởi một người có tuổi, già khú, có thể trong một buổi “trà dư tửu hậu” cùng bạn bè... Nó không phải là một sáng tác, một ghi chép (ký) theo thời gian. Tôi chỉ “nhìn” tôi một chút, rồi nhờ người khác nhìn tôi…
Tôi chia sẻ kinh nghiệm nghề nghiệp, suy tư, học hỏi.
Tôi tri ân những con người, những vùng đất…
Tôi muốn người đọc không vì tò mò.”

Nếu “Tôi Học Phật” thu tóm con đường Học Phật của Đỗ Hồng Ngọc, “Ngôn Ngữ số đặc biệt Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc” nghiêng về phần văn chương của ông thì “Chuyện Hồi Đó” chia sẻ cuộc đời của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc từ lúc cất tiếng khóc chào đời ở nhà bảo sanh Cô mụ Bé, dưới chân cầu sắt Phan Thiết vào một ngày tháng 8 năm 1940 (Canh Thìn) cho đến tuổi về chiều.
 
MỘT CHÚT VỀ ĐỖ HỒNG NGỌC

Bạn sẽ được biết về thời thơ ấu hồn nhiên hạnh phúc của ông bên ba má trong rừng già Hàm Tân, ngày được vui chơi trong khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, và đêm thì tuyệt diệu với những lúc văn nghệ ngoài trời mà chú bé ĐHN cũng là một thành viên biết ca hát, diễn kịch. Năm 8 tuổi, chú “được gởi vào học ở một trường đạo, gần nhà thờ trong rừng sâu. Thỉnh thoảng máy bay tới thì thầy trò chạy xuống suối trốn”... Học đến lớp ba trong rừng, và cứ học đi học lại lớp ba mãi vì không có lớp lớn hơn. Đến khi cha mất (1952), mẹ ông đưa 4 con, lớn nhất 12 tuổi (là ĐHN) nhỏ nhất 6 tháng, về tạm ở nhà Ngoại, rồi về Phan Thiết, ở nhà cô Hai trong chùa Hải Nam để có dịp chữa bệnh cho các con và cũng để cho chúng ăn học. Trong thời kỳ rất cơ cực này, ĐHN “bệnh triền miên vì sốt rét, suy dinh dưỡng nặng (12 tuổi mà chỉ cân nặng 25 kg!), vài ngày lại đi đò qua nhà thương thí chích thuốc. Nhà báo Nguiễn Ngu Í là em họ của mẹ ông (chị em con cô cậu ruột), từ Saigon về chùa thăm, thấy cháu thất học, nên dẫn tới gởi cho học ở trường Bạch Vân của người bạn là cô Hồ Thị Tiểu Sính, con gái ông Hồ Tá Bang, một nhà cải cách duy tân Việt Nam thời cận đại. Và cũng chính nhờ ở với cô Hai, người thích đọc sách đã nhờ cháu Ngọc đi mướn về cho đọc đã tạo cho chú bé ĐHN vốn tích lũy văn chương khi chú lén đọc hết cuốn sách dọc đường đi, thậm chí còn tóm tắt nội dung, các nhận xét của mình vào một cuốn vở học trò, dù bị cấm “vì con nít đọc truyện không tốt, mê, bỏ học”.  

Năm 1954, ông học lớp Đệ Thất Phan Bội Châu (Phan Thiết) thì qua năm 1955 Lagi trở thành thủ phủ của tỉnh Bình Tuy mới lập. Lúc đó, gia đình cô Hai và gia đình ông quyết định dời về Lagi là quê cũ của họ hàng phía nội, khiến ông phải nghỉ học thêm 3 năm nữa vì Lagi chưa có trường trung học. Nơi đây, mẹ ông có tiệm bán hàng xén trong chợ Lagi (Chợ Mới) và ông trở thành một phụ tá đắc lực chuyên đi Sài Gòn bổ hàng về cho mẹ bán để một hôm tình cờ bắt gặp cuốn Kim chỉ nam của học sinh của Nguyễn Hiến Lê bày bán “xôn” trên vỉa hè. Lật xem vài trang thấy thích, chú bé ĐHN mua ngay và “cuốn sách nhỏ đó làm thay đổi đời chú”. Chú viết thư cho tác giả trình bày hoàn cảnh thực tại của mình phải bỏ học nhiều năm và xin ý kiến về việc có nên học nhảy lớp không? Được ông NHL khuyến khích, chú ‘thực hành theo hướng dẫn của sách, lập chương trình học ôn, ‘học nhảy lớp’ để đuổi kịp bạn bè.  Thấy con học được và cũng nhờ bà con khuyến khích, năm 1960, mẹ ông đã đồng ý cho con “du học” Saigon. Không phụ công và lòng mong đợi của mẹ, cuối năm Đệ Nhất (1962) tại trường Võ Trường Toản Saigon, họ Đỗ được lãnh phần thưởng Danh dự toàn trường và đậu Tú Tài II dễ dàng. Một lần nữa, cậu Tú Ngọc lại tìm đến ông NHL để hỏi về lựa chọn ngành nghề khi băn khoăn đứng trước ngã ba đường: Y khoa, Sư phạm hay Văn khoa. Học giả họ Nguyễn đã cho lời khuyên thật tuyệt vời: “Cháu nên học Y, sau này giúp gia đình, giúp bà con cụ thể hơn, và nếu học giỏi có thể dạy học và khi hành nghề y chừng mươi năm, có kinh nghiệm sống, trải nhiều cảnh đời, nếu có tâm hồn và năng khiếu thì sẽ viết lách được, vì không thiếu gì những thầy thuốc là nhà văn như Tchekhov, Somerset Maugham, Cronin, Lỗ Tấn… ĐHN làm đúng như vậy và ông đã nổi tiếng trên cả ba lãnh vực này.
 
TUỔI THANH NIÊN & NGHỀ Y

ĐHN đứng thứ tám trong số những người đậu khóa thi Dự bị Y khoa đầu tiên (Année Pré-Médecine APM) (do trước đây chỉ cần đậu bằng PCB hoặc SPCN bên Đại học Khoa học thì có thể vào học thẳng Y khoa) được tổ chức năm 1962 với cả ngàn người ghi danh và tỷ lệ đậu chỉ vào khoảng 10%. Sau một năm học để lấy chứng chỉ APM ở Đại học Khoa học, sinh viên mới chính thức bước vào Y khoa Đại học đường Saigon học thêm 6 năm nữa. Ra trường, họ trở thành bác sĩ, và sau khi trình luận án sẽ được cấp bằng Tiến sĩ Y khoa Quốc gia. Bên cạnh đó, ĐHN cũng ghi danh học Việt Hán bên Đại học Văn khoa và sau đó học Xã hội học tại Đại học Vạn Hạnh.

Ấn tượng nhất khi vào năm thứ nhất Y khoa đối với ông là buổi Giáo sư Khoa trưởng, Bác sĩ Phạm Biểu Tâm, gặp gỡ các tân sinh viên đã nhắn nhủ: “Y khoa là một nghề cao quý nếu ta muốn cao quý, cũng là một nghề thấp hèn nếu ta muốn thấp hèn. Bác sĩ là một sinh viên Y khoa suốt đời. Trong khi hành nghề khó tránh khỏi đôi lúc ân hận nhưng đừng bao giờ để phải hối hận.” Lời Thầy dạy đã theo ông suốt cuộc đời.

Năm 26 tuổi, bị một tai nạn do bể kiếng gây cườm mắt dẫn tới mắt trái nhìn kém đi, không sao mổ xẻ chính xác được, vả lại ông cũng không thích ngoại khoa, sản khoa mà chỉ thích nhi khoa (Nội nhi), nên ông tập trung học về nhi khoa ngay từ đó. Năm 1968-69 ĐHN là “nội trú ủy nhiệm” ở khoa 2B Bệnh viện Nhi Đồng Sài Gòn. Năm 1969, ông ra trường Y và năm 1970 nhận được văn bằng Tiến sĩ Y khoa Quốc gia sau khi trình luận án đề tài Bệnh Sốt rét Cấp tính ở Trẻ em dưới sự hướng dẫn của GS Phan Đình Tuân cũng là Giám đốc BV Nhi Đồng SG. Năm 1971, ông về làm ở Dưỡng Đường Nhi khoa Trần Bình Trọng Chợ Lớn, trước nhà thờ Chợ Quán, của Bs Trần Văn Còn; đến năm 1973 lại trở về BV Nhi Đồng. Tại đây, ông đề nghị với Giám đốc - GS Phan Đình Tuân - tổ chức ngay một bộ phận Cấp cứu ở Phòng Khám Ngoại chẩn để cứu chữa kịp thời trẻ con bệnh nặng, khi ổn rồi mới đưa lên trại bệnh, tránh nguy cơ trẻ tử vong do bị lạc vì BV quá rộng, không được đưa đến đúng nơi khám kịp lúc. Đề nghị này được chấp thuận và ông được đề cử làm Trưởng Phòng. Theo thời gian, Phòng Cấp cứu đã chứng tỏ được hiệu quả rất tốt nên ngày càng được phát triển và về sau đã trở thành một Khoa quan trọng của bệnh viện Nhi. Ngoài ra ông có 10 năm (1972 – 1982) giảng dạy tại trường Nữ Hộ Sinh Quốc Gia ở Saigon mang những kiến thức y học lẫn cách ứng xử giao tiếp và cả bầu nhiệt huyết trao truyền cho những “Cô Mụ” tương lai nên được học trò quý mến.

ĐHN đặc biệt quan tâm đến nguyên tắc Phòng bệnh hơn chữa bệnh. Nhờ GS David Morley ở Anh gởi tặng cuốn See how they grow, năm 1982 ông thực hiện một Biểu đồ tăng trưởng, giúp trẻ khỏe mạnh, do chính bà mẹ theo dõi và săn sóc con mình, gồm gần như toàn bộ những kiến thức Nuôi con khỏe, chỉ vào trong một phiếu nhỏ, thực hiện được toàn bộ GOBIF mà ông đã Việt hóa thành BUSĂC (Biểu đồ tăng trưởng, Uống bù nước khi tiêu chảy, Sữa mẹ, Ăn dặm, Chủng ngừa) rất tiện dụng. Do nghiên cứu của UNICEF, “nơi nào có nhiều bà mẹ học lớp 5 thì tử lệ trẻ con tử vong thấp hơn nhiều nơi bà mẹ ít học, hay mù chữ”, ông nghĩ “quan trọng nhất không phải là cấp cứu giỏi, điều trị hay trên từng ca bệnh nặng của trẻ con mà phải nâng cao kiến thức bà mẹ, bởi chính bà mẹ mới gần gũi con, chăm sóc con tốt nhất, tránh mê tín dị đoan và biết phòng bệnh cho con...” Từ đó, ông viết các cuốn Viết cho các bà mẹ sanh con đầu lòng, Nuôi Con, Săn sóc con em nơi xa thầy thuốc, Những bệnh nguy hiểm thường gặp ở trẻ em v.v… với lời lẽ đơn giản, hướng dẫn cụ thể với nhiều hình vẽ…

Sau khi dự Hội thảo của Thụy Điển tại Hà Nội về Primary Child Care (Chăm sóc Sức khỏe Ban đầu cho Trẻ em) năm 1983, với phương pháp tiếp cận dựa vào Cộng đồng (Community-based approach), ông về thực hiện một Chương trình Săn sóc Sức khỏe Ban đầu (SSSKBĐ) cho trẻ em ở Phường 13, Quận 6, Tp HCM, một phường ven đô, nhiều khó khăn thời đó, với sự hỗ trợ của BV Nhi Đồng. Sau 2 năm, đã có nhiều thay đổi, qua hệ thống Nhân viên sức khỏe cộng đồng thực hiện tốt chương trình Giáo dục sức khỏe, phối hợp với trường Phú Định, Y tế cơ sở… Rồi ông rời BV Nhi đồng về làm Giám đốc Trung Tâm Truyền Thông - Giáo dục sức khỏe Sở Y tế (1985-2005), tham gia trực tiếp làm Trưởng ban Thư ký của Chương trình xây dựng mô hình SSSKBĐ toàn diện của Sở Y tế với BS Dương Quang Trung chủ trì tại xã cù lao Hiệp Phước huyện Nhà Bè từ năm 1986. Đây là một chương trình tổng hợp, với sự tham gia cộng đồng, phối hợp liên ngành, và kỹ thuật học thích hợp, lấy phòng bệnh làm chính, gắn liền sức khỏe với phát triển kinh tế xã hội của địa phương, ít tốn kém lại có hiệu quả cao. Chương trình Hiệp Phước cũng góp phần nền móng xây dựng Trung tâm Đào tạo và Bồi dưỡng Cán bộ Y tế Thành phố, sau này là Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch nhằm đào tạo người thầy thuốc giỏi vừa Lâm sàng vừa Cộng đồng, gắn Sức khỏe và Phát triển. Ngoài ra, ông còn là Giảng viên thỉnh giảng Bộ môn Nhi, Đại học Y dược TP. HCM (1981-1995), và là Trưởng Bộ môn Khoa học hành vi & Giáo dục sức khỏe, Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch (1995-2008). Chức vụ cuối trước khi nghỉ hưu là Cố vấn Bộ môn Y Đức – Khoa học hành vi, Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, Tp. HCM (2008-2016). 
 
CHÚT VĂN CHƯƠNG CHỮ NGHĨA

Vốn mê văn thơ và từ gene di truyền, ĐHN đã là một thi sĩ trước khi trở thành bác sĩ. Có thơ đăng báo từ khi còn học trung học và khi học trường Y, ông cũng là một thành viên của nguyệt san Tình Thương, tờ báo của sinh viên Y khoa Đại học đường Sài Gòn (1964 – 1966).
Khởi viết từ 1960, ông đã có bài đi trên các báo và tạp chí: Bách Khoa, Mai, Tình Thương, Ý Thức, Tuổi Ngọc, Mây Hồng, Tuổi Trẻ, Phụ Nữ, Thanh Niên, Mực Tím, Áo Trắng, Doanh Nhân Saigon Cuối Tuần, Sài Gòn Tiếp Thị, Kiến Thức Ngày Nay, Văn Hóa Phật Giáo, Giác Ngộ, Từ Quang, Liễu Quán...

Ngoài làm thơ, ông còn viết sách một loạt sách y học bằng lời văn chia sẻ, tâm tình, dễ thấm vào lòng người, lại mang chất thơ, chẳng hạn, “Tới một tuổi nào đó, ta quan tâm rất nhiều đến thân thể mình. Ta lắng nghe thân thể mình phát triển như chú dế mèn lắng nghe tiếng cỏ mọc trong đêm khuya…”, đã khiến học giả Nguyễn Hiến Lê nhận xét: “Một bác sĩ mà là một thi sĩ thì luôn làm cho ta ngạc nhiên một cách thú vị”. Có thể kể: Những Tật Bệnh Thông Thường Trong Lứa Tuổi Học Trò (1972), Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng (1974), Chăm Sóc Trẻ Từ Sơ Sinh Đến 3 Tuổi (1978), Những Bệnh Nguy Hiểm Thường Gặp Ở Trẻ Em, Săn Sóc Con Em Nơi Xa Thầy Thuốc (1986), Nuôi Con (1988), Nói Chuyện Sức Khỏe Với Tuổi Mới Lớn (1989), ...

Bên cạnh đó, ĐHN còn có những cuốn tùy bút, tạp văn chia sẻ những tâm tình và trải nghiệm của mình như Gió Heo May Đã Về (1997), Già Ơi… Chào Bạn! (1999), Thư Gởi Người Bận Rộn I (2005) & II (2011), Chẳng Cũng Khoái Ru? (2008), Nhớ Đến Một Người (2011), Ghi Chép Lang Thang (2014), Già Sao Cho Sướng? (2015), Một Hôm Gặp Lại (2016)...
Ông kể: “Tôi nhớ mình chưa từng học làm thơ. Lúc 16, 17 tuổi, tôi đã bắt đầu viết những câu thơ “trời ơi”. “Thơ” nó cứ tự nhiên đến như thế. Như không thôi đi được. Tôi không nghĩ thơ phải “làm” ra mà tự nhiên thơ tới. Nhiều khi không kịp viết, không kịp nhớ. Hình như nó được hun đúc nuôi dưỡng tự bao giờ...” Bạn đọc sẽ được thưởng thức những chia sẻ rất thú vị về thơ  văn ĐHN qua các bài viết của Lê Minh Quốc, Nguyên Giác Phan Tấn Hải, Nguyễn Thị Tịnh Thy, Đỗ Thị Thanh Nga, Phạm Hiền Mây, Minh Lê, Nguyễn Thiên Nga, Nguyễn Đức Tùng, Đỗ Trường, Trịnh Y Thư, Thảo Nhiên, Phạm Bảo Kim, Trần Vấn Lệ, Phạm Chu Sa, Phan Chính, Ý Nhi đan xen những tùy bút tâm đắc của ông: Nghĩ trong ngày 30 Tết, Nhớ Tiếng thu giữa Boston, “Em đi mau kẻo trễ chuyến phà đêm”, Kể thơ trên xe lửa, Những ngày hưu bận rộn...
 
NHỮNG GẦN GŨI THÂN THIẾT

Nơi đây ông đã ghi lại những thân tình riêng với Học giả Nguyễn Hiến Lê, Nhà báo Ngu Í Nguyễn Hữu Ngư, Giáo sư Trần Văn Khê, Nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương, Bác sĩ Họa sĩ Dương Cẩm Chương, Thầy Thích Thanh Từ, Thầy Tuệ Sỹ, cùng những chuyến đi thăm thắng cảnh quê hương cùng bà con bạn bè quen biết ở Lagi, Phan Thiết, hay Phú Yên, cũng như ngoài quê hương như xứ sở hoa anh đào, hay kangaroo, hoặc đất Phật Nepal.
 
PHẬT HỌC

BS ĐHN tiết lộ, “Từ gần 30 năm nay, tôi “nghiền ngẫm” kinh sách và “thực hành” những điều Phật dạy trong đời sống hằng ngày. Bắt đầu với Bát Nhã Tâm Kinh, tôi lần theo “đường dây” từ Tâm Kinh đến Kim Cang, đến Pháp Hoa, Duy Ma Cật, Lăng Nghiêm, Viên Giác, Lăng Già, Hoa Nghiêm, Pháp Bảo Đàn Kinh… dĩ nhiên không thể không học và thực hành con đường căn bản từ Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, Thập Nhị Nhân Duyên để chắt trong đó ra những then chốt cốt lõi và luôn luôn đặt những nghi vấn, Tại sao? Có gì hay? Làm cách nào?... Ứng dụng thế nào vào chính bản thân mình trong thời hiện đại, cách xa Phật đến hai ngàn sáu trăm năm...

Khi về già, tôi học Phật cách khác. Mỗi kinh sách, bài giảng dài dòng, thêm bớt… tôi chỉ học một câu, một chữ, một bài kệ và tự nghiền ngẫm, đặt câu hỏi, giải đáp và thực hành trong đời sống hàng ngày. Con đường học Phật phải là con đường an lạc, con đường “diệt khổ”, chớ nếu học Phật mà “khổ thêm” thì chắc học sai!

Ông đã xuất bản một số sách sau đây rất được bạn đọc hoan nghênh vì ông viết bằng văn phong rất dễ hiểu, nhẹ nhàng và đẹp như thơ: 1/ Nghĩ Từ Trái Tim (về Tâm Kinh Bát Nhã, 2003); 2/ Gươm Báu Trao Tay (về kinh Kim Cang, 2008) và bản dịch Anh ngữ “Handing Down Precious Sword” của Diệu Hạnh Giao Trinh (2015); 3/ Thấp Thoáng Lời Kinh (2012); 4/ Thiền và Sức khỏe (2013); 5/ Ngàn Cánh Sen Xanh Biếc (về kinh Pháp Hoa, 2014); 6/ Cõi Phật Đâu Xa (về kinh Duy Ma Cật, 2016); 7/ Thoảng Hương Sen (2018); 8/ Bông Hồng Cho Mẹ và những cảm nhận học Phật (2022); 9/ Tôi Học Phật (2023).
          
Trên đây chỉ là những chia sẻ rất tóm tắt của “Chuyện Hồi Đó” của tác giả Đỗ Hồng Ngọc do Nhà xuất bản Phụ Nữ Việt Nam xuất bản và Phanbook phát hành trong tháng 8/2025 vừa qua. Sách được bán ở các tiệm sách hoặc qua link:
https://tiki.vn/chuyen-hoi-do-do-hong-ngoc-phanbook-p278445353.html
 
Trần Thị Nguyệt Mai
11.9.2025

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Đọc Trịnh Y Thư là đọc một nghệ thuật viết tiểu thuyết vừa siêu hình vừa hiện thực. Nó thực thực hư hư đầy bất ngờ ở những bước ngoặt tình tiết. Độc giả thoạt thấy câu chuyện là như vầy, nhưng đoạn sau nó lại mở ra một cảnh mới, nhân vật cũ mà cảnh thì khác. Lối sắp xếp câu chuyện, dàn cảnh như trong phim trường. Tác giả dẫn dắt khán giả như đang xem một cuốn phim mà nhà đạo diễn đổi cảnh quay, đổi đề tài, đổi tâm tính mà vẫn luôn giữ khán giả ở lại với nhân vật của truyện, của con người Việt Nam trong suốt ba cuộc bể dâu...
“ VÀ EM, LỄ KHẤN DÒNG” ( VE,LKD) là thi phẩm thứ 24 của nhà thơ Lê Đình Bảng, sau 23 tác phẩm đã xuất bản gồm các sách Giảng văn, Giáo trình sách giáo khoa, Thơ, Văn, Bút ký... xuất bản từ năm 1962 ở Sài Gòn và hải ngoại cho đến nay. Sách dày 110 trang gồm 63 bài thơ và lời giới thiệu của nhà phê bình văn học Bùi Vĩnh Phúc, do nhà Xuất bản Tuổi Hoa Publishing, Hoa Kỳ ấn hành tháng 8 năm 2024, với tranh bìa của họa sĩ Nguyễn Hà và ký họa chân dung tác giả của họa sĩ Chóe.
Hiếm có một tiểu thuyết như Đường về thủy phủ của Trịnh Y Thư. Không phải là một cuốn tiểu thuyết lịch sử, nhưng lại làm người đọc phải bâng khuâng nghĩ về những chặng đường đã trải qua của dân tộc. Không phải là một tiểu thuyết diễm tình, nhưng lòng độc giả sẽ chùng xuống khi khép trang sách lại và ngậm ngùi cho những mối tình tan vỡ. Bạn có thể đọc xong, tuần sau đọc lại, vẫn còn thấy có những gì như cần đọc nữa. Chữ của Trịnh Y Thư như dường không cũ tí nào, vì nó luôn luôn gợi tới những gì sâu thẳm trong tim mỗi người, những ước mơ về một mối tình rất mực kỳ ngộ, rất mực dị thường.
“Ở Phía Đông Âm Phủ” là một trong hai truyện tạo thành tập truyện có cùng tựa đề “Ở Phía Đông Âm Phủ” của nhà văn Nguyễn Viện. Sách dày 184 trang do Tiếng Quê Hương xuất bản năm 2024. Ở âm phủ, dĩ nhiên, để bị trừng phạt và đền tội, nếu vậy, ngụ ý của tác giả là tội gì, đối với các nhân vật trong truyện, những lãnh tụ có thật đưa vào hư cấu, mang máu lịch sử, tạo ra những khúc quanh lớn cho dân tộc, chôn hàng hà sa số xương thịt của người dân, dù có ý định tốt đẹp? Đối với lãnh đạo, lý tưởng và hành động là hai bạn đồng hành, nếu họ yêu nhau, chuyện tốt đẹp sẽ xảy ra; nếu họ phản bội nhau, chuyện xấu xa sẽ xuất hiện sau mặt nạ son phấn của tuyên truyền.
Sách mới "Ở PHÍA ĐÔNG ÂM PHỦ" của Nguyễn Viện, do NXB Tiếng Quê Hương (Mỹ) ấn hành, 2024. Gồm 2 truyện kịch: VÀ, HẮN ĐÃ ĐẾN & Ở PHÍA ĐÔNG ÂM PHỦ. Nhà thơ Nguyễn Đức Tùng nhận định: “Ở phía đông âm phủ” độc đáo ở chỗ tác giả không miêu tả trực tiếp nhân vật, mà để cho họ nói năng như trên sân khấu, như trong một vở kịch. Hình thức tiểu thuyết - kịch rất hiếm trong văn học Việt Nam… Những quan sát của anh sắc bén, và trong một ngôn ngữ đẹp, giản dị, tinh tế, dí dỏm, tôi thiết nghĩ anh đã thành công trong việc đánh thức ý thức lịch sử và xúc cảm cá nhân nơi người đọc. Nhà nghiên cứu lý luận Ngu Yên đúc kết: Trên con đường văn chương Việt, Nguyễn Viện trở thành một trong số ít nhà văn phiêu lưu, dọ dẫm vào miền văn học lạ lẫm.
Kề từ khi bệnh tật tận tình thăm hỏi, Khánh Trường đã cho ra đời: Truyện ngắn Khánh Trường (2016), Chuyện Bao Đồng (tạp bút, 2018) và các tiểu thuyết: Tịch Dương (2019), Dấu Khói Tàn Tro (2020), Bãi Sậy Chân Cầu (2020), Có Kẻ Cuồng Điên Khóc (2020), Xuyên Giấc Chiêm Bao (2021), Đừng Theo Dông Bão (2021). Nắng Qua Đèo (2021), Năm Tháng Buồn Thiu (2023), Cùng Nhau Đất Trời (2024) và cuối cùng là tập Thơ Khánh Trường (2024). Số tác phẩm đồ sộ này, ít ai, kể cả những tác giả sung sức nhất, làm nổi. Đúng là…kỳ vĩ! Cuốn “Cùng Nhau Đất Trời” này có chút khác với các cuốn trước vì tác giả ghi ngay ngoài bìa sách là “du ký tiểu thuyết”. Chuyện mới à! Mới nhưng truyện của Khánh Trường chằng bao giờ thoát ra khỏi tình. “Cùng Nhau Đất Trời” cũng vậy, đây là một truyện tình. Nhân vật chính không còn trẻ, đã 38 tuổi, chưa chồng con. Ông bố sốt ruột: “Cô tưởng cô còn trẻ lắm sao? Kén cá chọn canh mãi, mai mốt thành gái già, hối không kịp”.
Nhận được cuốn tiểu thuyết Đường về thủy phủ của nhà văn Trinh Y Thư, nghiền ngẫm đọc mấy hôm và suy nghĩ viết đôi lời cảm nhận cho tác phẩm của ông...
Tôi đã đọc bản thảo “Dòng Đời” khá là chậm. Đôi khi tôi đọc lại môt số đoạn, một số trang. Khi đọc lại toàn văn bản thảo lần thứ nhì, tôi lấy giấy ra ghi chú về các nhân vật, các mốc thời gian, những chuyển biến khi các nhân vật dời đổi từ bên dòng sông này qua thị trấn miền núi kia. Tất cả như một cuốn phim về một quê nhà đang tìm hướng đi trong thời kỳ hậu thực dân Pháp, nơi lối rẽ của tranh chấp để con sông trở thành đôi bờ và rồi người lái đò (trong tiểu thuyết này là người có tên là ông Ba Đò) trở thành người hai mặt, bị buộc cung cấp tin cho cả hai lực lượng thuộc hai ý thức hệ khác nhau.
Ngôn Ngữ đặc biệt về “tác giả tác phẩm”, cuốn này hân hạnh được giới thiệu đến quý bạn đọc, một cây bút tài danh đã viết và thành công trong hầu hết trong nhiều bộ môn văn học nghệ thuật qua bốn thập niên. Tác giả đó là nhà văn Trịnh Y Thư. Ông tên thật Trịnh Ngọc Minh, sinh ngày 11 tháng 2 năm 1952 tại Hà Nội, trưởng thành tại Sài Gòn, du học và hành nghề điện tử viễn thông tại Hoa Kỳ cho đến khi hưu trí vào năm 2018. Như đã thượng dẫn, Trịnh Y Thư là một người đa tài, chúng tôi xin giới thiệu đại khái về từng bộ môn ông đã sinh hoạt. Trong bộ môn văn, ông đã viết và phổ biến rộng qua sách in từ truyện ngắn, tiểu thuyết, truyện dịch, khảo cứu, nhận định văn học, tùy bút, tạp bút, tạp luận. Với bộ môn thi ca, ông có một số ít bài theo phong cách vần điệu nhưng không cùn mòn. Chúng tôi nghĩ ông rất hứng thú và chuyên về trường ca, hoặc những bài viết có số lượng câu không quá ngắn hoặc quá dài, và ông cũng sử dụng cả lối thơ Hokku với chỉ 3 câu cho từng khổ.
Trong số truyện ngắn của nhà văn Doãn Quốc Sỹ, “Chiếc Chiếu Hoa Cạp Điều” trong tập truyện Gìn Vàng Giữ Ngọc có lẽ là tác phẩm được độc giả nhắc đến nhiều nhất. Dựa trên câu chuyện cơ cực có thật của chính gia đình mình trong thời toàn quốc kháng chiến chống Pháp, Doãn Quốc Sỹ đã kể lại với một cách nhìn nhân bản, kết thúc với đoạn văn được những người hâm mộ trích lại nhiều nhất: “…Ở thế giới thực dân tư bản người ta tung vật chất ra để giam lỏng linh hồn; ở thế giới thực dân cộng sản, người ta phong tỏa vật chất để mua rẻ linh hồn. Cả hai cùng thất bại! Linh hồn nhân loại chỉ có thể mua được bằng tình thương yêu rộng rãi và chân thành…”


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.