Hôm nay,  

Đỗ Hồng Ngọc và Chuyện Hồi Đó

19/09/202500:00:00(Xem: 1835)
 
chueyn hoi do
Bìa sách "Chuyện hồi đó".
 
Khi giúp thực hiện tạp chí Ngôn Ngữ số đặc biệt Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc phát hành vào tháng 5-2024, tôi đã được Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc cho hay có nhà xuất bản và cả độc giả đề nghị ông viết “hồi ký”. Chẳng hạn như anh Nguyễn Hiền Đức, người độc giả đặc biệt quý mến anh, đã đánh máy và tặng lại bộ sưu tập những bài viết của ĐHN, có lần tỏ bày: “... tôi kính cẩn thưa trình với ông rằng tôi mong sớm được đọc Hồi ký của ông. Nhớ lại, ông đã nhiều lần “thúc hối” thầy mình là Nguyễn Hiến Lê viết hồi ký như André Maurois đã từng làm với Un ami qui s’appelait moi vậy. Trước nay tôi vốn thích đọc Hồi ký, và các cuốn hồi ký mà tôi thích nhất vẫn là cuốn của Nguyễn Hiến Lê, Đào Duy Anh, Quách Tấn, Trần Văn Khê…, và, chắc chắn sẽ rất thích Hồi ký Đỗ Hồng Ngọc. Tôi không dám nói sai lời và cũng như nhiều độc giả chí cốt của Đỗ Hồng Ngọc nóng lòng chờ đợi Hồi ký Đỗ Hồng Ngọc.”

Nhưng cuối cùng, ông đã không viết hồi ký, mà chọn cách viết “Chuyện Hồi Đó” được nói đến trong Chương 1, “là những  chuyện xưa, tích cũ, kể lại bởi một người có tuổi, già khú, có thể trong một buổi “trà dư tửu hậu” cùng bạn bè... Nó không phải là một sáng tác, một ghi chép (ký) theo thời gian. Tôi chỉ “nhìn” tôi một chút, rồi nhờ người khác nhìn tôi…
Tôi chia sẻ kinh nghiệm nghề nghiệp, suy tư, học hỏi.
Tôi tri ân những con người, những vùng đất…
Tôi muốn người đọc không vì tò mò.”

Nếu “Tôi Học Phật” thu tóm con đường Học Phật của Đỗ Hồng Ngọc, “Ngôn Ngữ số đặc biệt Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc” nghiêng về phần văn chương của ông thì “Chuyện Hồi Đó” chia sẻ cuộc đời của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc từ lúc cất tiếng khóc chào đời ở nhà bảo sanh Cô mụ Bé, dưới chân cầu sắt Phan Thiết vào một ngày tháng 8 năm 1940 (Canh Thìn) cho đến tuổi về chiều.
 
MỘT CHÚT VỀ ĐỖ HỒNG NGỌC

Bạn sẽ được biết về thời thơ ấu hồn nhiên hạnh phúc của ông bên ba má trong rừng già Hàm Tân, ngày được vui chơi trong khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, và đêm thì tuyệt diệu với những lúc văn nghệ ngoài trời mà chú bé ĐHN cũng là một thành viên biết ca hát, diễn kịch. Năm 8 tuổi, chú “được gởi vào học ở một trường đạo, gần nhà thờ trong rừng sâu. Thỉnh thoảng máy bay tới thì thầy trò chạy xuống suối trốn”... Học đến lớp ba trong rừng, và cứ học đi học lại lớp ba mãi vì không có lớp lớn hơn. Đến khi cha mất (1952), mẹ ông đưa 4 con, lớn nhất 12 tuổi (là ĐHN) nhỏ nhất 6 tháng, về tạm ở nhà Ngoại, rồi về Phan Thiết, ở nhà cô Hai trong chùa Hải Nam để có dịp chữa bệnh cho các con và cũng để cho chúng ăn học. Trong thời kỳ rất cơ cực này, ĐHN “bệnh triền miên vì sốt rét, suy dinh dưỡng nặng (12 tuổi mà chỉ cân nặng 25 kg!), vài ngày lại đi đò qua nhà thương thí chích thuốc. Nhà báo Nguiễn Ngu Í là em họ của mẹ ông (chị em con cô cậu ruột), từ Saigon về chùa thăm, thấy cháu thất học, nên dẫn tới gởi cho học ở trường Bạch Vân của người bạn là cô Hồ Thị Tiểu Sính, con gái ông Hồ Tá Bang, một nhà cải cách duy tân Việt Nam thời cận đại. Và cũng chính nhờ ở với cô Hai, người thích đọc sách đã nhờ cháu Ngọc đi mướn về cho đọc đã tạo cho chú bé ĐHN vốn tích lũy văn chương khi chú lén đọc hết cuốn sách dọc đường đi, thậm chí còn tóm tắt nội dung, các nhận xét của mình vào một cuốn vở học trò, dù bị cấm “vì con nít đọc truyện không tốt, mê, bỏ học”.  

Năm 1954, ông học lớp Đệ Thất Phan Bội Châu (Phan Thiết) thì qua năm 1955 Lagi trở thành thủ phủ của tỉnh Bình Tuy mới lập. Lúc đó, gia đình cô Hai và gia đình ông quyết định dời về Lagi là quê cũ của họ hàng phía nội, khiến ông phải nghỉ học thêm 3 năm nữa vì Lagi chưa có trường trung học. Nơi đây, mẹ ông có tiệm bán hàng xén trong chợ Lagi (Chợ Mới) và ông trở thành một phụ tá đắc lực chuyên đi Sài Gòn bổ hàng về cho mẹ bán để một hôm tình cờ bắt gặp cuốn Kim chỉ nam của học sinh của Nguyễn Hiến Lê bày bán “xôn” trên vỉa hè. Lật xem vài trang thấy thích, chú bé ĐHN mua ngay và “cuốn sách nhỏ đó làm thay đổi đời chú”. Chú viết thư cho tác giả trình bày hoàn cảnh thực tại của mình phải bỏ học nhiều năm và xin ý kiến về việc có nên học nhảy lớp không? Được ông NHL khuyến khích, chú ‘thực hành theo hướng dẫn của sách, lập chương trình học ôn, ‘học nhảy lớp’ để đuổi kịp bạn bè.  Thấy con học được và cũng nhờ bà con khuyến khích, năm 1960, mẹ ông đã đồng ý cho con “du học” Saigon. Không phụ công và lòng mong đợi của mẹ, cuối năm Đệ Nhất (1962) tại trường Võ Trường Toản Saigon, họ Đỗ được lãnh phần thưởng Danh dự toàn trường và đậu Tú Tài II dễ dàng. Một lần nữa, cậu Tú Ngọc lại tìm đến ông NHL để hỏi về lựa chọn ngành nghề khi băn khoăn đứng trước ngã ba đường: Y khoa, Sư phạm hay Văn khoa. Học giả họ Nguyễn đã cho lời khuyên thật tuyệt vời: “Cháu nên học Y, sau này giúp gia đình, giúp bà con cụ thể hơn, và nếu học giỏi có thể dạy học và khi hành nghề y chừng mươi năm, có kinh nghiệm sống, trải nhiều cảnh đời, nếu có tâm hồn và năng khiếu thì sẽ viết lách được, vì không thiếu gì những thầy thuốc là nhà văn như Tchekhov, Somerset Maugham, Cronin, Lỗ Tấn… ĐHN làm đúng như vậy và ông đã nổi tiếng trên cả ba lãnh vực này.
 
TUỔI THANH NIÊN & NGHỀ Y

ĐHN đứng thứ tám trong số những người đậu khóa thi Dự bị Y khoa đầu tiên (Année Pré-Médecine APM) (do trước đây chỉ cần đậu bằng PCB hoặc SPCN bên Đại học Khoa học thì có thể vào học thẳng Y khoa) được tổ chức năm 1962 với cả ngàn người ghi danh và tỷ lệ đậu chỉ vào khoảng 10%. Sau một năm học để lấy chứng chỉ APM ở Đại học Khoa học, sinh viên mới chính thức bước vào Y khoa Đại học đường Saigon học thêm 6 năm nữa. Ra trường, họ trở thành bác sĩ, và sau khi trình luận án sẽ được cấp bằng Tiến sĩ Y khoa Quốc gia. Bên cạnh đó, ĐHN cũng ghi danh học Việt Hán bên Đại học Văn khoa và sau đó học Xã hội học tại Đại học Vạn Hạnh.

Ấn tượng nhất khi vào năm thứ nhất Y khoa đối với ông là buổi Giáo sư Khoa trưởng, Bác sĩ Phạm Biểu Tâm, gặp gỡ các tân sinh viên đã nhắn nhủ: “Y khoa là một nghề cao quý nếu ta muốn cao quý, cũng là một nghề thấp hèn nếu ta muốn thấp hèn. Bác sĩ là một sinh viên Y khoa suốt đời. Trong khi hành nghề khó tránh khỏi đôi lúc ân hận nhưng đừng bao giờ để phải hối hận.” Lời Thầy dạy đã theo ông suốt cuộc đời.

Năm 26 tuổi, bị một tai nạn do bể kiếng gây cườm mắt dẫn tới mắt trái nhìn kém đi, không sao mổ xẻ chính xác được, vả lại ông cũng không thích ngoại khoa, sản khoa mà chỉ thích nhi khoa (Nội nhi), nên ông tập trung học về nhi khoa ngay từ đó. Năm 1968-69 ĐHN là “nội trú ủy nhiệm” ở khoa 2B Bệnh viện Nhi Đồng Sài Gòn. Năm 1969, ông ra trường Y và năm 1970 nhận được văn bằng Tiến sĩ Y khoa Quốc gia sau khi trình luận án đề tài Bệnh Sốt rét Cấp tính ở Trẻ em dưới sự hướng dẫn của GS Phan Đình Tuân cũng là Giám đốc BV Nhi Đồng SG. Năm 1971, ông về làm ở Dưỡng Đường Nhi khoa Trần Bình Trọng Chợ Lớn, trước nhà thờ Chợ Quán, của Bs Trần Văn Còn; đến năm 1973 lại trở về BV Nhi Đồng. Tại đây, ông đề nghị với Giám đốc - GS Phan Đình Tuân - tổ chức ngay một bộ phận Cấp cứu ở Phòng Khám Ngoại chẩn để cứu chữa kịp thời trẻ con bệnh nặng, khi ổn rồi mới đưa lên trại bệnh, tránh nguy cơ trẻ tử vong do bị lạc vì BV quá rộng, không được đưa đến đúng nơi khám kịp lúc. Đề nghị này được chấp thuận và ông được đề cử làm Trưởng Phòng. Theo thời gian, Phòng Cấp cứu đã chứng tỏ được hiệu quả rất tốt nên ngày càng được phát triển và về sau đã trở thành một Khoa quan trọng của bệnh viện Nhi. Ngoài ra ông có 10 năm (1972 – 1982) giảng dạy tại trường Nữ Hộ Sinh Quốc Gia ở Saigon mang những kiến thức y học lẫn cách ứng xử giao tiếp và cả bầu nhiệt huyết trao truyền cho những “Cô Mụ” tương lai nên được học trò quý mến.

ĐHN đặc biệt quan tâm đến nguyên tắc Phòng bệnh hơn chữa bệnh. Nhờ GS David Morley ở Anh gởi tặng cuốn See how they grow, năm 1982 ông thực hiện một Biểu đồ tăng trưởng, giúp trẻ khỏe mạnh, do chính bà mẹ theo dõi và săn sóc con mình, gồm gần như toàn bộ những kiến thức Nuôi con khỏe, chỉ vào trong một phiếu nhỏ, thực hiện được toàn bộ GOBIF mà ông đã Việt hóa thành BUSĂC (Biểu đồ tăng trưởng, Uống bù nước khi tiêu chảy, Sữa mẹ, Ăn dặm, Chủng ngừa) rất tiện dụng. Do nghiên cứu của UNICEF, “nơi nào có nhiều bà mẹ học lớp 5 thì tử lệ trẻ con tử vong thấp hơn nhiều nơi bà mẹ ít học, hay mù chữ”, ông nghĩ “quan trọng nhất không phải là cấp cứu giỏi, điều trị hay trên từng ca bệnh nặng của trẻ con mà phải nâng cao kiến thức bà mẹ, bởi chính bà mẹ mới gần gũi con, chăm sóc con tốt nhất, tránh mê tín dị đoan và biết phòng bệnh cho con...” Từ đó, ông viết các cuốn Viết cho các bà mẹ sanh con đầu lòng, Nuôi Con, Săn sóc con em nơi xa thầy thuốc, Những bệnh nguy hiểm thường gặp ở trẻ em v.v… với lời lẽ đơn giản, hướng dẫn cụ thể với nhiều hình vẽ…

Sau khi dự Hội thảo của Thụy Điển tại Hà Nội về Primary Child Care (Chăm sóc Sức khỏe Ban đầu cho Trẻ em) năm 1983, với phương pháp tiếp cận dựa vào Cộng đồng (Community-based approach), ông về thực hiện một Chương trình Săn sóc Sức khỏe Ban đầu (SSSKBĐ) cho trẻ em ở Phường 13, Quận 6, Tp HCM, một phường ven đô, nhiều khó khăn thời đó, với sự hỗ trợ của BV Nhi Đồng. Sau 2 năm, đã có nhiều thay đổi, qua hệ thống Nhân viên sức khỏe cộng đồng thực hiện tốt chương trình Giáo dục sức khỏe, phối hợp với trường Phú Định, Y tế cơ sở… Rồi ông rời BV Nhi đồng về làm Giám đốc Trung Tâm Truyền Thông - Giáo dục sức khỏe Sở Y tế (1985-2005), tham gia trực tiếp làm Trưởng ban Thư ký của Chương trình xây dựng mô hình SSSKBĐ toàn diện của Sở Y tế với BS Dương Quang Trung chủ trì tại xã cù lao Hiệp Phước huyện Nhà Bè từ năm 1986. Đây là một chương trình tổng hợp, với sự tham gia cộng đồng, phối hợp liên ngành, và kỹ thuật học thích hợp, lấy phòng bệnh làm chính, gắn liền sức khỏe với phát triển kinh tế xã hội của địa phương, ít tốn kém lại có hiệu quả cao. Chương trình Hiệp Phước cũng góp phần nền móng xây dựng Trung tâm Đào tạo và Bồi dưỡng Cán bộ Y tế Thành phố, sau này là Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch nhằm đào tạo người thầy thuốc giỏi vừa Lâm sàng vừa Cộng đồng, gắn Sức khỏe và Phát triển. Ngoài ra, ông còn là Giảng viên thỉnh giảng Bộ môn Nhi, Đại học Y dược TP. HCM (1981-1995), và là Trưởng Bộ môn Khoa học hành vi & Giáo dục sức khỏe, Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch (1995-2008). Chức vụ cuối trước khi nghỉ hưu là Cố vấn Bộ môn Y Đức – Khoa học hành vi, Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, Tp. HCM (2008-2016). 
 
CHÚT VĂN CHƯƠNG CHỮ NGHĨA

Vốn mê văn thơ và từ gene di truyền, ĐHN đã là một thi sĩ trước khi trở thành bác sĩ. Có thơ đăng báo từ khi còn học trung học và khi học trường Y, ông cũng là một thành viên của nguyệt san Tình Thương, tờ báo của sinh viên Y khoa Đại học đường Sài Gòn (1964 – 1966).
Khởi viết từ 1960, ông đã có bài đi trên các báo và tạp chí: Bách Khoa, Mai, Tình Thương, Ý Thức, Tuổi Ngọc, Mây Hồng, Tuổi Trẻ, Phụ Nữ, Thanh Niên, Mực Tím, Áo Trắng, Doanh Nhân Saigon Cuối Tuần, Sài Gòn Tiếp Thị, Kiến Thức Ngày Nay, Văn Hóa Phật Giáo, Giác Ngộ, Từ Quang, Liễu Quán...

Ngoài làm thơ, ông còn viết sách một loạt sách y học bằng lời văn chia sẻ, tâm tình, dễ thấm vào lòng người, lại mang chất thơ, chẳng hạn, “Tới một tuổi nào đó, ta quan tâm rất nhiều đến thân thể mình. Ta lắng nghe thân thể mình phát triển như chú dế mèn lắng nghe tiếng cỏ mọc trong đêm khuya…”, đã khiến học giả Nguyễn Hiến Lê nhận xét: “Một bác sĩ mà là một thi sĩ thì luôn làm cho ta ngạc nhiên một cách thú vị”. Có thể kể: Những Tật Bệnh Thông Thường Trong Lứa Tuổi Học Trò (1972), Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng (1974), Chăm Sóc Trẻ Từ Sơ Sinh Đến 3 Tuổi (1978), Những Bệnh Nguy Hiểm Thường Gặp Ở Trẻ Em, Săn Sóc Con Em Nơi Xa Thầy Thuốc (1986), Nuôi Con (1988), Nói Chuyện Sức Khỏe Với Tuổi Mới Lớn (1989), ...

Bên cạnh đó, ĐHN còn có những cuốn tùy bút, tạp văn chia sẻ những tâm tình và trải nghiệm của mình như Gió Heo May Đã Về (1997), Già Ơi… Chào Bạn! (1999), Thư Gởi Người Bận Rộn I (2005) & II (2011), Chẳng Cũng Khoái Ru? (2008), Nhớ Đến Một Người (2011), Ghi Chép Lang Thang (2014), Già Sao Cho Sướng? (2015), Một Hôm Gặp Lại (2016)...
Ông kể: “Tôi nhớ mình chưa từng học làm thơ. Lúc 16, 17 tuổi, tôi đã bắt đầu viết những câu thơ “trời ơi”. “Thơ” nó cứ tự nhiên đến như thế. Như không thôi đi được. Tôi không nghĩ thơ phải “làm” ra mà tự nhiên thơ tới. Nhiều khi không kịp viết, không kịp nhớ. Hình như nó được hun đúc nuôi dưỡng tự bao giờ...” Bạn đọc sẽ được thưởng thức những chia sẻ rất thú vị về thơ  văn ĐHN qua các bài viết của Lê Minh Quốc, Nguyên Giác Phan Tấn Hải, Nguyễn Thị Tịnh Thy, Đỗ Thị Thanh Nga, Phạm Hiền Mây, Minh Lê, Nguyễn Thiên Nga, Nguyễn Đức Tùng, Đỗ Trường, Trịnh Y Thư, Thảo Nhiên, Phạm Bảo Kim, Trần Vấn Lệ, Phạm Chu Sa, Phan Chính, Ý Nhi đan xen những tùy bút tâm đắc của ông: Nghĩ trong ngày 30 Tết, Nhớ Tiếng thu giữa Boston, “Em đi mau kẻo trễ chuyến phà đêm”, Kể thơ trên xe lửa, Những ngày hưu bận rộn...
 
NHỮNG GẦN GŨI THÂN THIẾT

Nơi đây ông đã ghi lại những thân tình riêng với Học giả Nguyễn Hiến Lê, Nhà báo Ngu Í Nguyễn Hữu Ngư, Giáo sư Trần Văn Khê, Nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương, Bác sĩ Họa sĩ Dương Cẩm Chương, Thầy Thích Thanh Từ, Thầy Tuệ Sỹ, cùng những chuyến đi thăm thắng cảnh quê hương cùng bà con bạn bè quen biết ở Lagi, Phan Thiết, hay Phú Yên, cũng như ngoài quê hương như xứ sở hoa anh đào, hay kangaroo, hoặc đất Phật Nepal.
 
PHẬT HỌC

BS ĐHN tiết lộ, “Từ gần 30 năm nay, tôi “nghiền ngẫm” kinh sách và “thực hành” những điều Phật dạy trong đời sống hằng ngày. Bắt đầu với Bát Nhã Tâm Kinh, tôi lần theo “đường dây” từ Tâm Kinh đến Kim Cang, đến Pháp Hoa, Duy Ma Cật, Lăng Nghiêm, Viên Giác, Lăng Già, Hoa Nghiêm, Pháp Bảo Đàn Kinh… dĩ nhiên không thể không học và thực hành con đường căn bản từ Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, Thập Nhị Nhân Duyên để chắt trong đó ra những then chốt cốt lõi và luôn luôn đặt những nghi vấn, Tại sao? Có gì hay? Làm cách nào?... Ứng dụng thế nào vào chính bản thân mình trong thời hiện đại, cách xa Phật đến hai ngàn sáu trăm năm...

Khi về già, tôi học Phật cách khác. Mỗi kinh sách, bài giảng dài dòng, thêm bớt… tôi chỉ học một câu, một chữ, một bài kệ và tự nghiền ngẫm, đặt câu hỏi, giải đáp và thực hành trong đời sống hàng ngày. Con đường học Phật phải là con đường an lạc, con đường “diệt khổ”, chớ nếu học Phật mà “khổ thêm” thì chắc học sai!

Ông đã xuất bản một số sách sau đây rất được bạn đọc hoan nghênh vì ông viết bằng văn phong rất dễ hiểu, nhẹ nhàng và đẹp như thơ: 1/ Nghĩ Từ Trái Tim (về Tâm Kinh Bát Nhã, 2003); 2/ Gươm Báu Trao Tay (về kinh Kim Cang, 2008) và bản dịch Anh ngữ “Handing Down Precious Sword” của Diệu Hạnh Giao Trinh (2015); 3/ Thấp Thoáng Lời Kinh (2012); 4/ Thiền và Sức khỏe (2013); 5/ Ngàn Cánh Sen Xanh Biếc (về kinh Pháp Hoa, 2014); 6/ Cõi Phật Đâu Xa (về kinh Duy Ma Cật, 2016); 7/ Thoảng Hương Sen (2018); 8/ Bông Hồng Cho Mẹ và những cảm nhận học Phật (2022); 9/ Tôi Học Phật (2023).
          
Trên đây chỉ là những chia sẻ rất tóm tắt của “Chuyện Hồi Đó” của tác giả Đỗ Hồng Ngọc do Nhà xuất bản Phụ Nữ Việt Nam xuất bản và Phanbook phát hành trong tháng 8/2025 vừa qua. Sách được bán ở các tiệm sách hoặc qua link:
https://tiki.vn/chuyen-hoi-do-do-hong-ngoc-phanbook-p278445353.html
 
Trần Thị Nguyệt Mai
11.9.2025

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhà văn Trịnh Y Thư vừa ấn hành tuyển tập Theo Dấu Thư Hương 2, gồm nhiều bài viết trong nhiều chủ đề đa dạng, phần lớn là về văn học nghệ thuật, đôi khi là lịch sử, khoa học, xã hội. Tuyển tập dày 294 trang, đang lưu hành trên các mạng, như Amazon và Barnes & Noble. Nhìn chung, tác phẩm giúp độc giả soi rọi thêm nhiều cách nhìn đa dạng, mới mẻ, kể cả khi tác giả viết về những người viết chúng ta đã quen thuộc trong văn học Việt Nam, như về Ngô Thế Vinh, Đỗ Hồng Ngọc, Nguyễn Thị Khánh Minh, và nhiều người khác...
Hans Fallada, tên thật là Rudolf Ditzen, người đã sống giữa những biến động của nước Đức — từ sự sụp đổ của Đế chế, đến cơn bão của Thế chiến thứ nhất, rồi bước vào cơn ác mộng của Đệ tam đế chế. Trước chiến tranh, Fallada là một nhà văn nổi tiếng, tác giả của Little Man, What Now?, được Hollywood dựng thành phim. Nhưng khi Hitler lên nắm quyền, ông bị cấm xuất bản, bị Gestapo rình rập, và bị ép phải viết những tác phẩm phục vụ tuyên truyền. Tưởng chừng như bị nghiền nát giữa bạo lực và sợ hãi, ông lại tìm thấy trong ngục tối một đường sống của tâm hồn – viết. Trong ngục tối, ông bí mật viết nên ba cuốn tiểu thuyết mã hóa, và sau chiến tranh, vừa thoát xác một người sống sót, ông viết cuốn cuối cùng: Mỗi người đều chết một mình (Every Man Dies Alone).
Năm 2025 đánh dấu một bước ngoặt đặc biệt trong hành trình của Ocean Vuong (1). Nhà văn, nhà thơ gốc Việt nầy đã trở thành một trong những khuôn mặt quan trọng nhất của văn chương Mỹ đương đại. Không còn là “hiện tượng thơ”, không còn được biết đến qua nỗi đau di dân, không còn đứng trong hào quang của Night Sky with Exit Wounds hay thành công bất ngờ của On Earth We’re Briefly Gorgeous trước đây, Ocean Vuong năm 2025 là một nhà văn đang mở ra biên giới mới của chính mình với The Emperor of Gladness, NXB Penguin Press, New York, 2025)...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Vâng, cảm ơn nhà thơ thiền sư Thiện Trí. Ý nghĩa rất minh bạch, rằng hãy về thôi. Về thôi, về mặc Cà Sa / Về thôi cởi áo Ta Bà phong sương... Hiển nhiên, không phải là đổi y phục, mà phải là chuyển hóa nội tâm. Cởi áo Ta Bà không đơn thuần là rời bỏ đời sống cư sĩ hay thế tục, mà là buông bỏ tâm vọng động, tâm phân biệt, tâm chấp ngã vốn đã bị phong sương của sinh tử bào mòn. Mặc áo Cà Sa không nhất thiết là khoác lên mình chiếc áo của người xuất gia, mà là khoác lên tâm từ bi, trí tuệ, và vô ngã.
Khăn quấn. Áo sơ sinh. Muối. Tuyết. Băng. Năm vật trắng - năm tiếng gọi đầu tiên - đặt lên trang giấy như một chuỗi hạt. Trong tay Han Kang, chúng vừa là dấu hiệu khởi sinh, vừa là định mệnh. Đứa trẻ chưa kịp sống đã được bọc trong khăn trắng, và cũng chính khăn quấn ấy trở thành tấm liệm. Trắng ở đây không phải nền sáng, mà là sự trống vắng ngân nhịp toàn cuốn sách. Han Kang, nhà văn Hàn Quốc được biết nhiều qua The Vegetarian, tác phẩm đã đem về cho bà giải Nobel Văn chương năm 2024, xuất hiện trong văn học thế giới như một cơn gió lớn. Nhưng The White Book mới là tác phẩm tôi rất yêu của Bà – những dòng chữ lặng mà sáng, mong manh mà bám riết.
Cuốn sách này là một công trình phục vụ cộng đồng nhân kỷ niệm 50 năm xa quê hương sống đời viễn xứ (1975-2025). Sách được in thành 2 tập – Tập 1 gồm 41 tác giả và Tập 2 gồm 45 tác giả. Như vậy, tổng cộng có 86 tác giả, trong đó có nhiều tác giả đã nổi tiếng từ trước 1975. Tám mươi sáu tác giả đến vùng đất này bằng những cách khác nhau, trình độ khác nhau, nghề nghiệp khác nhau nhưng có một điểm tất cả đều giống nhau. Đó là: Họ đã sống và viết bên dòng Potomac.
Ngày 17 tháng 9 năm 2025, thi sĩ “Công giáo” Lê Đình Bảng đã bước vào độ tuổi thượng thọ. Ông đã chính thức đạt 83 tuổi Tây và 84 năm tuổi ‘Mụ’. Một độ tuổi cần nghỉ ngơi, an dưỡng tuổi già. Song với tình yêu văn chương, chữ nghĩa và đặc biệt là niềm tin vào tôn giáo, ông vẫn như một thanh niên tráng kiện, đầy đức tin và nhiệt huyết, khi cho ra mắt thi phẩm thứ 25, sau rất nhiều tác phẩm nổi tiếng với nhiều thể loại khác nhau như văn xuôi, nghiên cứu lịch sử, tôn giáo...sáng tác kể từ năm 1967 miệt mài cho đến nay...
Tập truyện ngắn vừa phát hành của nhà văn Trần Kiêm Trinh Tiên có một nhan đề rất là buồn, “Hạt U Minh.” Nhiều truyện trong tập này như dường viết về các lằn ranh bị vượt qua. Thí dụ, lằn ranh tình yêu (hay như dường là tình yêu) giữa một ni cô và một chàng trai trong trường Dòng. Hay thí dụ, mối tình giữa một thiếu nữ Huế và chàng trai Mỹ, và chàng chết khi bùng nổ các trận đánh trong Tết Mậu Thân ở Huế. Hay như truyện cuối trong tập, khởi đầu là các hình ảnh liên hệ tới Kinh Thánh Ki Tô Giáo, giữa truyện là ký ức một thiếu nữ về một truyện Thiền... Cuộc đời, vâng cuộc đời, thực sự là không có lằn ranh, dù là màu da hay tôn giáo. Tác giả có vẻ như muốn nêu chủ đề từ những chuyện đời thường.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.