Hôm nay,  

MAI

21/03/202420:21:00(Xem: 5651)
432617357_10225358733335486_7092119854917400557_n
Mai - Khởi chiếu ở các rạp Hoa Kỳ, Canada và Châu Âu từ ngày 22/3.


Nếu nói một cách ngắn gọn nhất, thì tui sẽ nói như thế này: Hình như Mai là cuốn phim Việt Nam hay nhất với tui từ trước đến giờ thì phải.
Còn nếu nói dài thì nói luôn là tui coi phim Việt Nam không nhiều. Hồi nhỏ không có gì coi thì tivi chiếu gì coi đó, trong đó có phim VN. Sao mà nó cứ chầm chậm, lây lất. Ngột ngạt. Nặng nề.

Đến lúc diễn viên có thể nói nhanh hơn một chút, cuộc sống chuyển động lẹ hơn một chút, thì tui lại thấy sao những gì mà người ta nói, người ta làm, người ta sống cứ như ở một thế giới nào đó mà tui không tồn tại, nó cứ giả giả gượng gượng như "plastic".

Rồi thì cũng đến lúc tui được xem nhiều cuốn phim Việt Nam hay ho hơn, tử tế hơn trong các lần VAALA tổ chức Đại hội điện ảnh Việt Film Fest. Nhưng bàng bạc trong đó, vẫn cứ thấy lẩn quẩn một nỗi gì khó diễn tả lắm. ‘Bi ơi, đừng sợ!’ (mặc dù tui coi tui sợ muốn chết), ‘Trăng nơi đáy giếng’, ‘Song Lang’,… nhiều quá không nhớ hết tựa…

ngoc lan
Ngọc Lan và Nguyễn Trường tại buổi Premiere phim MAI
ở rạp Regal, Irvine Spectrum, 20/3/24. Ảnh: Ngọc Lan

‘Mai’ thu hút tui từ cảnh đầu tiên, lúc Mai kéo vali vào chung cư, ngước nhìn cái cầu thang mình phải bước lên và vượt ra khỏi các ô cửa chất chồng của bao tầng cao là một khoảng trời, đủ nhỏ, tối thui!

Mai kéo theo hành trang mình, không nhiều, nhưng lỉnh kỉnh, đi qua những nhếch nhác chen trong tiếng vợ chửi chồng, mẹ quát con, hàng xóm gấu ó, cùng những mắt nhìn soi mói không cần che đậy. Tất cả đều là sự hiện diện cho một thứ mà tui gọi là cuộc đời của chốn bình dân.

Tui đi theo Mai để nhìn cuộc sống diễn ra như là chính nó, nghĩa là tui thấy đâu đó cái ồn ào, nhiều chuyện của khu xóm tui từng ở, thấy đâu đó bóng dáng bạn bè, người quen mình đang bươn chải trong cuộc mưu sinh dưới nhiều màu sắc. Và đằng sau mỗi ánh mắt, nụ cười, gương mặt dịu dàng hay đành hanh, giọng nói ngọt ngào hay chua ngoa… là những câu chuyện đời không đụng hàng, không giống ai.

Tui đi theo Mai để nhìn thấy nhân tình thế thái diễn ra như là chính nó, không cần lên gân, không cần rao giảng, không cần make-up. Có thể ai đó cho rằng tình yêu giữa Mai và Sâu là không thật, hay được thi vị hóa, lý tưởng hóa. Nhưng với tui, tui lại thấy nó thật, thật như nhân vật Sâu đã nói “Yêu đâu có ai khôn đâu” 🙂 Nghĩa là chả có một công thức hay khuôn mẫu nào cho tình yêu. Người tỉnh táo bên ngoài nhìn vào có thể thấy những ngu dại, những chông chênh, khập khiểng, không tương lai của 1 cuộc tình. Nhưng người trong cuộc lại khác. Vì yêu, họ có thể làm được những điều chính họ cũng không nghĩ đến.

Có thể ai đó nói mẹ Sâu tráo trở quá, gia đình Sâu ác quá khi bằng mọi cách đào bới cuộc đời Mai, phơi bày nó ra một cách trần trụi trước mặt Sâu – người yêu Mai, và Bình Minh – con gái Mai, chỉ vì mục đích muốn họ phải chia tay. Nhưng với tui, tui lại thấy đó là cách vùng vẫy, chống trả quyết liệt đến cùng cực của một thứ mang tên tình thương của các bậc cha mẹ dành cho núm ruột của mình. Con cái trong mắt họ luôn như những con thỏ ngơ ngác, sẽ luôn va vấp, sẽ luôn bị dối lừa, nên họ - những bậc sinh thành, tự lúc nào, luôn khoác lên mình thiên chức phải biến thành hổ báo để bảo vệ đàn con. Mà không hề biết rằng bên ngoài nó lành lặn thật đấy, nhưng bên trong, trái tim nó tơi bời, rách mướp! Vết thương đó, những đứa con phải tự tìm cách chữa lành cho chính mình.
Tui đi theo Mai để bàng hoàng nhìn ra cái ê chề đến tàn khốc khi một người cha có thể vì tiền mà chấp nhận bán đứa con gái vừa lớn của mình cho nhà chứa. Rồi cũng vì tiền, ông lại một lần nữa bán Mai đi bằng cách kể ra quá khứ ‘làm đĩ’ của con gái mình trước mặt gia đình Sâu, mà quên kể rằng chính ông đã đẩy Mai vào chốn ấy ra sao. Cuộc đời thật liệu có khốn nạn như vậy không? Với tui, câu trả lời là không. Bởi, cuộc đời thật nó khốn nạn hơn như thế!
Tui đi theo Mai để được nghe mẹ Sâu hát bài ca mà nhiều bậc cha mẹ thuộc lòng "Tao đã hi sinh vì ai? Cả thanh xuân tao không dám yêu ai, không dám đến với ai, là vì ai? Hãy trả lại thanh xuân cho tao!” Phải chăng tất cả những đứa con đều mong chờ điều đó, đòi hỏi điều đó? Câu Sâu trả lời mẹ: "Mẹ, con có yêu cầu mẹ làm như vậy không? Con có đòi hỏi thanh xuân của mẹ không? Sao phải bắt con chịu trách nhiệm?" có phải là điều đứa con nào cũng dám nói ra?

Tui đi theo Mai, để có lúc ngỡ rằng, lúc Mai quyết định “Đánh” – đánh bầm dập cái đứa làm chung luôn bắt nạt mà lâu nay Mai nín nhịn. Đánh bằng mồm những đứa hàng xóm xấu tính xấu nết. Và kéo theo Sâu đi tìm một nơi nào không ai biết đến họ để mà được bên nhau sống tiếp cuộc đời còn lại – là đã kết thúc phim, là một kết thúc đẹp, khi đọng trên khuôn mặt của Mai, của Sâu là nét rạng ngời hạnh phúc, trên chiếc xe thong dong giữa bao la đất trời.
Nhưng, Mai sẽ không còn là đời thật nữa nếu kết thúc ở đó.

Mạch chuyện của Mai, với tui, đã được kết cấu chặt chẽ, liền mạch từ đầu đến cuối. Cái kết chuyện làm tui bâng khuâng. Nụ cười ấm áp của Mai chào tạm biệt Sâu, vợ Sâu, mẹ Sâu. Để rồi khi cửa xe đóng lại. Mai nhìn về phía trước. Và khóc. Những giọt nước mắt chấm dứt quãng thời gian đã chờ đợi – trong âm thầm. Con đường Mai đi tiếp, với tui, đã nhẹ nhàng hơn, bởi không còn phải kéo theo những cồng kềnh, lỉnh kỉnh. Và, không còn là ngột ngạt của ô cửa chồng ô cửa, trên cao, tối thui một góc trời. Mà, phía trước của Mai, là cả một bầu trời, sáng trưng.

20240320_194838
Buổi công chiếu phim Mai tại rạp Regal, Irvine, California, 20/03. Ảnh: Nina Lê
Tui thích nét diễn của Mai, của ba Mai, của Sâu, của mẹ Sâu, và của cả Bình Minh.

Tui thích cảnh Mai hiện tại lần dò, nhìn ngắm, nghiền ngẫm Mai của quá khứ thật xa và quá khứ thật gần.

Có thể ai đó sẽ cảm thấy lạ khi nghe cách nói chuyện, cách xưng hô trong phim. Nhưng ngôn từ khi nhân loại đã bắt đầu làm quen với AI rồi thì phải chịu khó mà nghe và ráng mà hiểu, chứ quay lại cách nói của thời Hồ Biểu Chánh hay Tự Lực Văn Đoàn, thiên hạ tưởng mình đóng phim cổ trang.

Cuối cùng, tui xem Mai, cảm nhận Mai bằng những trải nghiệm của riêng tui. Và tui viết ra bằng lăng kính của riêng mình. Bạn đồng ý hay không đồng ý, là cảm nhận của riêng bạn. Nếu chưa xem, đừng có ý kiến, hãy nhấn vào poster dưới đây để tìm rạp gần nhà, xem xong hẳn bàn.

Ngọc Lan



Mai schedule
Mai - Khởi chiếu ở các rạp Hoa Kỳ, Canada và Châu Âu từ ngày 22/3. Xem các địa điểm trên để tìm rạp chiếu phim Mai gần nhà.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sài gòn ơi đường phố vắng không người Vào những ngày cơn ác mộng khôn nguôi Tôi muốn nói về một niềm hy vọng Niềm tin yêu và hy vọng đời đời
Nói đến việc tập hát Karaoke, tôi nghĩ, có lẽ không có công việc gì mà một số lớn người Việt có thể tự nguyện tập luyện hăng say như vậy. Thời giờ dùng để tập hát, có lẽ, ngang ngửa với thời giờ xem phim bộ. Say mê. Tưởng tượng. Đi làm về, bật máy lên hát. Ngủ dậy, vừa thay đồ vừa hát lập đi lập lại kẻo quên giai điệu. Tắm hát. Lái xe hát. Vào sở làm, hát lén. Ăn trưa ngồi một mình, hát lẩm bẩm. Tôi có một anh bạn, ngày thường cũng như cuối tuần, ngoài những lúc đi họp hát, lúc nào cũng thấy anh ngồi thẳng thóm nơi ghế sa lông dài, nhìn chăm chăm vào máy truyền hình, miệng hát và tự làm duyên một mình, tay đưa lên diễn tả như đang đứng trên sân khấu. Vợ anh ta than phiền, Ổng không làm gì hết. Tối ngày ngồi một chỗ hát đến nổi lủng luôn ghế da. Năm xưa, vợ chờ chồng đi chinh chiến đến nổi hóa đá. Nay, vợ chờ chồng ca hát, lạnh lẽo gối giường. Khuya khoắt mới chịu vào ngủ. Bạn tôi đến nay đã thành ca sĩ đối với một số thân hữu có giới hạn.
Sài Gòn đại dịch, những con đường vắng ngắt, những con hẻm buồn tênh, những mặt người sầu lo. Quán xá hoang vu, chợ búa im lìm, thành phố phong tỏa rồi. Dòng người nghẹn ngào, lìa xa thành phố, tìm đường về quê, nương náu với người thân, ước mong trở lại khi dịch cúm không còn. Nhưng anh còn em, đôi ta còn nhau, ta yêu Sài Gòn bao mùa mưa nắng, ta thương Sài Gòn năm tháng vẫn hiên ngang. Vững tin quê hương lướt qua cơn đại dịch.
Có một sự kiện rất lý thú là trong Kinh Phật kể chuyện một hôm, lúc Đức Phật còn tại thế, các nhạc thần Càn Thát Bà (Gandharva) đã đến chỗ Đức Phật và tấu nhạc để cúng dường Ngài và Đại Chúng. Nhạc của những nhạc thần này hay và sống động đến độ nhiều vị đệ tử của đức Phật cũng bị lôi cuốn và đứng dậy nhảy múa theo tiếng nhạc dù chỉ là giây lát. Sự việc này cho thấy rằng từ thời Đức Phật vào thế kỷ thứ 6 trước tây lịch âm nhạc đã xuất hiện trong các pháp hội, các sinh hoạt của thất chúng đệ tử Phật.
Anh bạn thi sĩ, Nguyễn Bá Trạc, cho tôi một lời khuyên, khi mới vừa bước chân vào xóm văn chương. Anh nói: -“Ai khen mình, dù không đúng, cũng vui. Nếu khen đúng, lại càng vui hơn. Ai chê mình, dù không đúng, cũng buồn. Nếu chê đúng, lại càng buồn hơn.” Thật là chí lí. Tôi có hàng trăm kinh nghiệm về chuyện này. Trong các loại chê, lời vợ chê là đau đớn nhất, lưu trữ lâu dài nhất, thông thường là đúng nhất. Nếu biết sửa đổi những gì vợ chê, những người đàn ông đó đều trở thành thiên tài. Còn lời vợ khen thì sao? Đề phòng, sắp tốn tiền.
What the Horse Eats, tựa đề tiếng Việt là Trong Bụng Ngựa, là vở opera kể một câu chuyện có thật xảy ra thời Nhật chiếm đóng Việt Nam năm 1945. Ở những làng quê miền Bắc, những cái xác trơ xương nằm vất vưởng ngoài đường. Người ta, cũng là những bộ xương còn sống còn đi được, gom xác chết chất lên xe cun cút đem chôn tập thể. Cả làng tiêu điều như thành phố ma. Hơn hai triệu người Việt Nam đã chết đói. Dân số vào thời đó là 18 triệu. Chiến tranh, nạn đói, chế độ thực dân dồn ép con người ta phải lựa chọn giữa sự sống và cái chết, giữa danh dự và tình thương cho con. Một anh chăn ngựa lo lắng cho gia đình, đặc biệt là đứa con mới chào đời. Anh phải nhận lời làm không công cho viên Đại Uý Nhật, chăm nom con Ngựa Trắng quý của ông ta, cùng lúc anh mang trong đầu một tính toán táo bạo. Người vợ của anh thì đang vật lộn với trách nhiệm và tình thương của người mẹ, chỉ biết gắng gượng nuốt rễ cây. Hai vợ chồng cố gắng sống mòn trong danh dự. Cuối cùng, cùng đường, họ đành chấp nhận
Trầm Tử Thiêng đã hiến trọn một đời cho âm nhạc, ông được hàng triệu người thương yêu mến mộ. Kho tàng nghệ thuật của ông là 200 ca khúc tình yêu, thân phận, quê hương và chiến chinh. Hành trình sáng tác cũng như tác phẩm của Trầm Tử Thiêng gắn liền với thời cuộc của đất nước và mối tình của chính cuộc đời ông…
Không hiểu vì lý do gì mà nhạc sĩ Lan Đài sáng tác nhiều ca khúc mang nỗi buồn man mác xa xôi trong khi nghề nghiệp và tình yêu với cuộc sống cũng là niềm ước mơ của nhiều người. Trong thời gian qua, tôi đã viết nhiều về thơ văn nơi phố cổ Hội An, càng về già càng nhớ nơi chốn với bao nhiêu kỷ niệm của thuở học trò. Hai đêm qua, tôi nghe lại những ca khúc của nhạc sĩ Lan Đài và viết những dòng nhạc về ông với niềm thương cảm.
Trong hồi ký, Bejarano kể rằng việc bà được cứu bởi các binh sĩ Hoa Kỳ là những người đã cho bà cây đàn accordion, mà bà đã chơi vào ngày binh sĩ Mỹ và những người sống sót của trại tập trung nhảy múa chung quanh tấm hình bị đốt cháy của Adolf Hitler để ăn mừng Đồng Minh chiến thắng Đức Quốc Xã. Bejarano đã di cư tới Do Thái sau chiến tranh và lập gia đình với Nissim Bejarano. Cặp vợ chồng này có 2 người con, Edna và Joram, trước khi trở về Đức vào năm 1960. Sau một lần nữa chống chủ nghĩa bài Do Thái công khai, Bejarano quyết định hoạt động chính trị, đồng sáng lập Ủy Ban Auschwitz vào năm 1986 để giúp những người sống sót nền tảng cho những câu chuyện của họ.
Steven Spielberg, người viết truyện mà bộ phim “The Goonies” dựa vào đó để đóng, nói với Variety rằng Donner là “thiên tài về rất nhiều thể loại.” “Ở trong quỹ đạo của ông ấy giống như đi chơi với người huấn luyện yêu thích của bạn, giáo sư thông minh, nhà động viên quyết liệt, người bạn đáng mến nhất, đồng minh trung thành nhất, và – dĩ nhiên – Goonie vĩ đại nhất,” theo Ông Spielberg cho biết. Sinh tại Quận Bronx, New York, Donner đã bắt đầu vào ngành truyền hình vào đầu thập niên 1960s, với nhiều uy tín gồm loạt phim “The Twilight Zone” và phim kinh dị tình báo “The Man From Uncle.” Nhưng phải đợi đến giữa thập niên 1970s ông mới ghi dấu ấn tại Hollywood. Tác phẩm “Superman” năm 1978 của ông với sự tham gia của ngôi sao Christopher Reeve thường được xem như là phim siêu anh hùng hiện đại đầu tiên.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.