Hôm nay,  

Đêm

13/05/202421:04:00(Xem: 5106)



Thơ: Thanh Tâm Tuyền

Nhạc: Cung Tiến

Hát: Bích Liên

Ở cõi đời có nhiều điều khiến mình phải dừng và chậm lại để mà lắng nghe. Như nghe tiếng chim hót ngoài vườn rực nắng, nghe tiếng mưa đêm rả rích quện với tiếng gió chẳng hạn. Nhưng đó chỉ là yếu tố ngoại cảnh làm chạnh lòng những ai đang có nỗi niềm bên trong. Chúng chẳng sánh được với những cảm xúc phát xuất từ đáy lòng thi sĩ biến thành thơ, để rồi thơ chạm vào tim người nhạc sĩ phát ra nốt nhạc, tiếng nhạc làm thổn thức giọng hát và ngân vang trong lòng người.

Đêm – thơ Thanh Tâm Tuyền

Những đêm nào chiến tranh đã quên

Con mắt đen niềm im lặng

Anh vẫn đi hoài trong thành phố Cô đơn

Trưa nắng cháy

Vào sâu trong ghẻ lạnh

Với máu trong tim

Chảy nhanh như máy móc đau ốm

Ở cuối đêm

Em rũ tóc nói những lời mê sảng

Những ám hiệu

Của mặt biển đen không

Tình yêu tuyệt vọng

Anh xé tóc em cùng những cành lá chết

Mùa thu

Ghi thương tích nơi cườm tay

Khóa chặt

Anh xô ngã em từ chóp đỉnh hạnh phúc

Khuôn mặt vỡ tan

Như cẩm thạch

Như nước mắt

Như muôn đời

Không hối hận

Con đường anh phải đi một mình

Trần truồng dã thú

Đón anh ở cuối đường

Hố sâu vĩnh viễn

Không có em

Bên kia bức tường

Anh bị nhốt trong trại hủi

 

Tiếng ngàn năm em gọi

Yêu nhau hết một đời

Hết một đời chưa đủ

Còn kiếp nào gặp nhau

Anh nguyền rủa

Lời thằng du đãng

Đừng ràng buộc thiên tài

Con chó vào cột nhà

Cho đi hoang làm cơn lốc bi thảm

Cuốn ngay chính mình chết theo không gian….

Nhà thơ Thanh Tâm Tuyền được mọi người xưng tụng là Vua của Thơ Tự Do. Nửa cuối Thế Kỷ 20 ông sáng tác sung mãn, mang thể thơ Tự Do trổi lên ngang tầm với thể thơ Tiền Chiến. Và ông đã thành công trong loại Thơ Mới này.

Ông dùng lối “hành thơ” không vần không vận không số chữ để lột tả ý tưởng đang tuôn trào trong ông. Độc giả đọc thơ Thanh Tâm Tuyền có lúc phải nín thở để đọc hết mạch thơ thì mới thấy ra được ý tác giả là thế nào. Có lúc hoảng hốt vì câu thơ chấm dứt đột ngột, để từ đấy cảm xúc rơi độp xuống vực, tận cùng. Tính kể lể dài dòng hay tính cô đọng của thơ Thanh Tâm Tuyền là thế. Độc giả cứ bị lôi theo dòng tư tưởng mà ông vội vã ghi xuống trang giấy. Ông nín thở viết thì người đọc cũng nín thở mà đọc.

Độc giả đôi khi tự hỏi “Không hiểu trong tâm của thi sĩ Thanh Tâm Tuyền có bao nhiêu ngăn kéo để chứa đựng nhiều nỗi niềm như thế. Có ngăn chứa tình yêu đất nước, ngăn cho tình yêu trai gái, ngăn cho con con người và xã hội, ngăn cho thú vật, cho cây cỏ…" Thi sĩ đa đoan thật!

Thế rồi… thơ để đọc khơi khơi là quên mau cho dù thơ rất hay. Cho nên Thơ cần được phà hơi tiếp sức bằng âm nhạc. Thơ và nhạc kết hợp với nhau làm nên một bàu trời mới, sắc màu mới để thấm vào lòng người dễ dàng hơn và lưu lại lâu hơn.

Khi thơ được phổ nhạc qua làn điệu, âm vực, tiết điệu thì Thơ biến đổi. Nó mang thêm tâm của người nhạc sĩ bên cạnh tình của chàng thi sĩ. Nay thi sĩ Thanh Tâm Tuyền đã có nhạc sĩ Cung Tiến đồng hành. Nhạc sĩ Cung Tiến được thiên phú tài năng trong lĩnh vực âm nhạc, dẫu rằng khi du học ông chọn ngành kinh tế. Ông đã xông pha học thêm về nhạc lý, ký xướng âm, hòa âm, đối âm… do vậy trong ông là một trời mênh mông cả hai lĩnh vực vô cùng khác nhau. Xem vậy chớ, chúng hỗ tương lẫn nhau để giúp ông sáng tác ca khúc vô cùng phong phú. Nhạc phẩm của ông mang nhiều hơi hướm Tây phương, chắc cũng nhờ vào học thức của cả hai lĩnh vực thơ – mơ mộng và kinh tế - thực tế đầy con số.


Ở bài thơ Đêm – Thanh Tâm Tuyền được nhạc sĩ Cung Tiến phổ nhạc thì đây là một sự kết hợp hài hòa, tương trợ lẫn nhau giữa thơ và nhạc. Dường như nhạc sĩ Cung Tiến đã nương theo ý thơ mà đưa âm nhạc vào. Ông không dùng kỹ thuật viết nhạc ca khúc như thường khi nữa, mà cứ để mặc cho nốt nhạc lượn theo con chữ. “Intro” vào bài là chuỗi nốt lơ lửng rải từ cung B giáng trưởng xuống, cùng với những quãng nghịch gây cảm giác lơ lửng như đang trong giấc mơ.

Nhà thơ với tâm trạng ngao ngán chiến tranh. Cuộc chiến gây lòng đau quặn vì hạnh phúc bị vỡ toang, đi với người tình mà như là những mảnh chắp vá hoảng loạn, nỗi sợ, và nỗi ghê tởm. Nói tóm lại đó là một cơn ác mộng trong đêm. Do vậy nhạc sĩ Cung Tiến đã dùng toàn những chuỗi nốt nhạc với rất nhiều dấu hóa bất thường để gây cảm giác ngang trái mà phổ thơ Thanh Tâm Tuyền. Mùi hương đêm nay mang hơi hướm ngai ngái nhờ vào kỹ thuật này.

“Rồi, những đêm nào chiến tranh đã quên - Con mắt đen – niềm im lặng – anh vẫn đi hoài trong thành phố”, nhạc sĩ đã viết một chuỗi nốt với âm vực trung bình. Tiếng hát êm cho thấy đây mới bắt đầu câu chuyện. Để dẫn nhập vào tâm trạng bất an kế tiếp, nhạc sĩ cho câu hát kết thúc ở quãng 6 rất lơ lửng, tắc nghẽn “trong thành phố…”.

“Cô đơn – trưa nắng cháy – vào sâu trong ghẻ lạnh – với máu trong tim – chảy nhanh nhanh như máy móc đau ốm…”, vẫn là tâm trạng không tươi sáng từ ý thơ, nên nhạc sĩ vẫn giữ tiếng nhạc lừ đừ đi lên và dừng ở âm vực cao hơn câu trước. “Ở cuối đêm - ở cuối đêm…” chuỗi nốt nhạc trở lại êm ả bình thường như thơ sĩ đang muốn vỗ về giấc ngủ trở lại.

Nhưng không! “Em rũ tóc nói lời mê sảng – những ám hiệu – của mặt biển đen không – tình yêu tuyệt vọng…” thi sĩ báo hiệu cuồng phong nhưng chưa nổi dậy. Nhạc sĩ vẫn giữ những nốt nhạc êm như mặt biển chưa nổi sóng.

Qua Đêm Thanh Tâm Tuyền trải nỗi lòng ngổn ngang, tơ vò mà ông vẫn chưa tìm được lối thoát. Thế thì Cung Tiến bèn cho bài nhạc kết thúc ở quãng 9. Nốt nhạc kéo dài, nhẹ dần và chìm vào im lặng để hòng thính giả mang hoài cảm giác lửng lơ, tơ vò cùng thi sĩ.

Để thơ và nhạc có gạch nối đến thính giả thì ca sĩ là điểm tựa duy nhất cần có. Ca sĩ nghiệp dư Bích Liên đóng đúng vai trò của mình. Ngoài đời bà là bác sĩ, thế nhưng vì có tài năng trong âm nhạc và ca hát. Bà đã dùng giọng hát có nhiều âm hưởng cổ điển để hát những ca khúc rất trúc trắc này. Kỹ thuật hát của ca sĩ Bích Liên hoàn chỉnh, giọng nhẹ mà rõ lời nên bà đã diễn tả trọn vẹn được nỗi lòng của thi sĩ. Kỹ thuật buông giọng và luyến láy bà đã thành công trong diễn tả nỗi bực tức, thất vọng từ nốt nhạc. Kỹ thuật đưa tiếng hát từ nốt thấp rồi cao vút lên không là lúc bà lột tả được sự thương nhớ mà nhạc sĩ mong muốn. Và cuối cùng để diễn tả nỗi lòng khôn nguôi mà không có lối thoát thì nốt nhạc lơ lửng ở quãng 9, nốt cuối cùng chìm dần vào im lặng. Âm thanh đã chấm dứt nhưng thính giả vẫn lặng im không dám nhúc nhích vì còn mong chờ một điều huyền diệu sắp xảy ra!? Nhạc sĩ Cung Tiến và thi sĩ Thanh Tâm Tuyền còn giao duyên thêm với nhau bài Lệ Đá Xanh. Ca sĩ Bích Liên đóng góp tiếng hát để làm tròn đầy bộ ba “thi sĩ, nhạc sĩ và ca sĩ” cống hiến cho nền âm nhạc Việt Nam nói chung, nơi hải ngoại nói riêng.

Nay dài dòng và nhiều lời với bài thơ Đêm. Bài thơ của thi sĩ Thanh Tâm Tuyền đã làm nên chuyện bộ ba “thi – nhạc – ca” sĩ. Nó đi một vòng tròn, đi từ tim một người để rồi đến tim một người khác, rồi đến một người khác nữa và lây truyền mãi cho đến đời sau. Để có một cái đẹp chân thiện mỹ mà đời sống con người ai cũng mong có.

Thi sĩ Thanh Tâm Tuyền còn giao tình với nhạc sĩ Phạm Đình Chương ở những ca khúc: Bài Ca Ngợi Tình Yêu, Dạ Tâm Khúc, Đêm Màu Hồng, Lệ Đá Xanh. Những ca khúc đã trở thành bất tử!

California, ngày 12 tháng 5 – 2024
Doãn Cẩm Liên

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sài gòn ơi đường phố vắng không người Vào những ngày cơn ác mộng khôn nguôi Tôi muốn nói về một niềm hy vọng Niềm tin yêu và hy vọng đời đời
Nói đến việc tập hát Karaoke, tôi nghĩ, có lẽ không có công việc gì mà một số lớn người Việt có thể tự nguyện tập luyện hăng say như vậy. Thời giờ dùng để tập hát, có lẽ, ngang ngửa với thời giờ xem phim bộ. Say mê. Tưởng tượng. Đi làm về, bật máy lên hát. Ngủ dậy, vừa thay đồ vừa hát lập đi lập lại kẻo quên giai điệu. Tắm hát. Lái xe hát. Vào sở làm, hát lén. Ăn trưa ngồi một mình, hát lẩm bẩm. Tôi có một anh bạn, ngày thường cũng như cuối tuần, ngoài những lúc đi họp hát, lúc nào cũng thấy anh ngồi thẳng thóm nơi ghế sa lông dài, nhìn chăm chăm vào máy truyền hình, miệng hát và tự làm duyên một mình, tay đưa lên diễn tả như đang đứng trên sân khấu. Vợ anh ta than phiền, Ổng không làm gì hết. Tối ngày ngồi một chỗ hát đến nổi lủng luôn ghế da. Năm xưa, vợ chờ chồng đi chinh chiến đến nổi hóa đá. Nay, vợ chờ chồng ca hát, lạnh lẽo gối giường. Khuya khoắt mới chịu vào ngủ. Bạn tôi đến nay đã thành ca sĩ đối với một số thân hữu có giới hạn.
Sài Gòn đại dịch, những con đường vắng ngắt, những con hẻm buồn tênh, những mặt người sầu lo. Quán xá hoang vu, chợ búa im lìm, thành phố phong tỏa rồi. Dòng người nghẹn ngào, lìa xa thành phố, tìm đường về quê, nương náu với người thân, ước mong trở lại khi dịch cúm không còn. Nhưng anh còn em, đôi ta còn nhau, ta yêu Sài Gòn bao mùa mưa nắng, ta thương Sài Gòn năm tháng vẫn hiên ngang. Vững tin quê hương lướt qua cơn đại dịch.
Có một sự kiện rất lý thú là trong Kinh Phật kể chuyện một hôm, lúc Đức Phật còn tại thế, các nhạc thần Càn Thát Bà (Gandharva) đã đến chỗ Đức Phật và tấu nhạc để cúng dường Ngài và Đại Chúng. Nhạc của những nhạc thần này hay và sống động đến độ nhiều vị đệ tử của đức Phật cũng bị lôi cuốn và đứng dậy nhảy múa theo tiếng nhạc dù chỉ là giây lát. Sự việc này cho thấy rằng từ thời Đức Phật vào thế kỷ thứ 6 trước tây lịch âm nhạc đã xuất hiện trong các pháp hội, các sinh hoạt của thất chúng đệ tử Phật.
Anh bạn thi sĩ, Nguyễn Bá Trạc, cho tôi một lời khuyên, khi mới vừa bước chân vào xóm văn chương. Anh nói: -“Ai khen mình, dù không đúng, cũng vui. Nếu khen đúng, lại càng vui hơn. Ai chê mình, dù không đúng, cũng buồn. Nếu chê đúng, lại càng buồn hơn.” Thật là chí lí. Tôi có hàng trăm kinh nghiệm về chuyện này. Trong các loại chê, lời vợ chê là đau đớn nhất, lưu trữ lâu dài nhất, thông thường là đúng nhất. Nếu biết sửa đổi những gì vợ chê, những người đàn ông đó đều trở thành thiên tài. Còn lời vợ khen thì sao? Đề phòng, sắp tốn tiền.
What the Horse Eats, tựa đề tiếng Việt là Trong Bụng Ngựa, là vở opera kể một câu chuyện có thật xảy ra thời Nhật chiếm đóng Việt Nam năm 1945. Ở những làng quê miền Bắc, những cái xác trơ xương nằm vất vưởng ngoài đường. Người ta, cũng là những bộ xương còn sống còn đi được, gom xác chết chất lên xe cun cút đem chôn tập thể. Cả làng tiêu điều như thành phố ma. Hơn hai triệu người Việt Nam đã chết đói. Dân số vào thời đó là 18 triệu. Chiến tranh, nạn đói, chế độ thực dân dồn ép con người ta phải lựa chọn giữa sự sống và cái chết, giữa danh dự và tình thương cho con. Một anh chăn ngựa lo lắng cho gia đình, đặc biệt là đứa con mới chào đời. Anh phải nhận lời làm không công cho viên Đại Uý Nhật, chăm nom con Ngựa Trắng quý của ông ta, cùng lúc anh mang trong đầu một tính toán táo bạo. Người vợ của anh thì đang vật lộn với trách nhiệm và tình thương của người mẹ, chỉ biết gắng gượng nuốt rễ cây. Hai vợ chồng cố gắng sống mòn trong danh dự. Cuối cùng, cùng đường, họ đành chấp nhận
Trầm Tử Thiêng đã hiến trọn một đời cho âm nhạc, ông được hàng triệu người thương yêu mến mộ. Kho tàng nghệ thuật của ông là 200 ca khúc tình yêu, thân phận, quê hương và chiến chinh. Hành trình sáng tác cũng như tác phẩm của Trầm Tử Thiêng gắn liền với thời cuộc của đất nước và mối tình của chính cuộc đời ông…
Không hiểu vì lý do gì mà nhạc sĩ Lan Đài sáng tác nhiều ca khúc mang nỗi buồn man mác xa xôi trong khi nghề nghiệp và tình yêu với cuộc sống cũng là niềm ước mơ của nhiều người. Trong thời gian qua, tôi đã viết nhiều về thơ văn nơi phố cổ Hội An, càng về già càng nhớ nơi chốn với bao nhiêu kỷ niệm của thuở học trò. Hai đêm qua, tôi nghe lại những ca khúc của nhạc sĩ Lan Đài và viết những dòng nhạc về ông với niềm thương cảm.
Trong hồi ký, Bejarano kể rằng việc bà được cứu bởi các binh sĩ Hoa Kỳ là những người đã cho bà cây đàn accordion, mà bà đã chơi vào ngày binh sĩ Mỹ và những người sống sót của trại tập trung nhảy múa chung quanh tấm hình bị đốt cháy của Adolf Hitler để ăn mừng Đồng Minh chiến thắng Đức Quốc Xã. Bejarano đã di cư tới Do Thái sau chiến tranh và lập gia đình với Nissim Bejarano. Cặp vợ chồng này có 2 người con, Edna và Joram, trước khi trở về Đức vào năm 1960. Sau một lần nữa chống chủ nghĩa bài Do Thái công khai, Bejarano quyết định hoạt động chính trị, đồng sáng lập Ủy Ban Auschwitz vào năm 1986 để giúp những người sống sót nền tảng cho những câu chuyện của họ.
Steven Spielberg, người viết truyện mà bộ phim “The Goonies” dựa vào đó để đóng, nói với Variety rằng Donner là “thiên tài về rất nhiều thể loại.” “Ở trong quỹ đạo của ông ấy giống như đi chơi với người huấn luyện yêu thích của bạn, giáo sư thông minh, nhà động viên quyết liệt, người bạn đáng mến nhất, đồng minh trung thành nhất, và – dĩ nhiên – Goonie vĩ đại nhất,” theo Ông Spielberg cho biết. Sinh tại Quận Bronx, New York, Donner đã bắt đầu vào ngành truyền hình vào đầu thập niên 1960s, với nhiều uy tín gồm loạt phim “The Twilight Zone” và phim kinh dị tình báo “The Man From Uncle.” Nhưng phải đợi đến giữa thập niên 1970s ông mới ghi dấu ấn tại Hollywood. Tác phẩm “Superman” năm 1978 của ông với sự tham gia của ngôi sao Christopher Reeve thường được xem như là phim siêu anh hùng hiện đại đầu tiên.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.