Hôm nay,  

Moonlight Sonata 14 và Thiền Trăng

04/07/202015:06:00(Xem: 3015)

                                                                                                                        

Trăng 14 lẻn nhẹ vào thiền đường. Mắt khép hờ mà hành giả vẫn thấy rõ. Nhưng trăng ngây thơ, tưởng sẽ đùa như trẻ nhỏ khi vờn lên vạt áo tràng nâu  làm hành giả giật mình, để trăng khúc khích cười.

Thôi được, giả như không thấy mà tạo niềm vui thì có sao đâu, nhất là niềm vui này lại tặng ánh trăng, đối tượng tri kỷ thường cùng tọa thiền những đêm tĩnh lặng.

Hue Tran 02
Đêm nay 14 nên trăng tỏ. Vạt áo nâu loang loáng ánh trăng tưởng như đang muốn lao xao múa hát. Trăng và áo đồng lõa, lay động những ngón tay đang đặt lên nhau. Hương từ bụi dạ lý bên cửa sổ cũng nhập cuộc, cùng “chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách”. Tất cả chợt quyện vào nhau: Hành giả, trăng, hương dạ lý, cùng vỗ đôi cánh nâu, nhịp nhàng theo một cung bực.

Cung bực gì? Ở đâu vọng tới vậy?

Ranh giới giữa mộng và thực bỗng như cánh gió, bay lên, theo bước  âm thanh mời gọi.

Đây rồi. Người thiếu nữ tên Countess Giulietta Guicciardi đứng bên hồ Lucerne, lặng thinh và mờ ảo như sương. Nàng đứng im. Chỉ có những giọt dương cầm thánh thót rơi quanh. Những giọt dương cầm từ trái tim thiên tài âm nhạc thế kỷ thứ 18. 

Beethoven đã phá vỡ những quy luật cổ điển về thể loại Sonata, khi ông không dành những cảm xúc sâu thẳm ở phần đầu, mà lại cuốn hút người nghe vào biển sóng dồn dập của nhịp điệu đô-thăng-thứ ở những trường canh cuối, nghiền nát bao đau thương tột cùng chảy tan thành lệ; rồi từng giọt, từng giọt rỏ xuống nhân gian, tạo thành những tiết tấu bất hủ trong “Moonlight Sonata 14” mà đến nay, đã hơn 200 năm, có ai dám tự nhận  bước qua?!


Hue Tran 03
À, thì ra tương ngộ là đây. Thiền trăng 14 và Moonlight Sonata 14.

Nếu gọi đầy đủ, thì tên của tác phẩm vượt thời gian, không gian này phải được xướng lên là “Moonlight Sonata No.14 Quasi Una Fantasia”. Tiếng Ý, Quasi Una Fantasia là Almost A Fantasy, là Hầu Như Ảo Vọng. 

Có lẽ cái tên không nhất thiết phải dài đến thế, nếu thời đó các nhạc sỹ có thể đặt tựa cho mỗi bản nhạc như bây giờ. Nhưng ở thế kỷ mà nền âm nhạc cổ điển được trân quý như âm thanh của chốn cung đình thì tên tác phẩm thường đặt theo thể loại (Sonata, Etude, Prelude, Symphony …) và tiếp theo là số thứ tự; đôi khi, thêm vài nét đặc thù theo cảm xúc của tác giả khi sáng tác. Đó là trường hợp Moonlight Sonata No.14 có thêm ba chữ “Quasi Una Fantasia”

 

Hue Tran 04
Thiên tài thường đi trước thời gian, những kẻ đồng thời mấy ai nhận biết! Nên khi Countess Giulietta Guicciardi nghe được, hiểu được, chia xẻ được giòng nhạc lạ lùng này thì Beethoven sửng sốt, cảm động, bàng hoàng, tưởng như chỉ là ảo vọng.

Nhưng nàng có thật. 

Nàng đứng đó, nghiêng đầu, uống từng giọt lệ rơi xuống từ mỗi cung bực. Những trường canh nhẹ như tơ lướt theo cánh buồm căng gió. Trăng nhấp nhô, vỡ vụn trên mặt hồ khi âm thanh chuyển dần vào bóng tối của những nhánh cây khô chĩa ra từ ven bờ.


Có phải đây là thông điệp về Khổ đau đã có mặt. Sự thật đầu tiên trong Tứ Diệu Đế tất nhiên có mặt, vì trong mỗi phút giây của sự sống đều có lực đẩy của sự chết, trong gần gũi đã có chia xa, trong tôi, em sẽ biến mất! 

Nhận ra điều đó chính là sự thật thứ hai, là nguyên nhân của khổ đau.

Hình ảnh cánh buồm chao đảo bật lên, cùng với âm thanh diễn tả sự quằn quại của sức gió, rồi lắng xuống, lắng xuống, khi trăng ẩn vào mây. Nơi ấy đã sẵn sự thật thứ ba. Đó là sự chấm dứt khổ đau

Tới đây, tuyệt chiêu của ma lực âm thanh vỡ ra, rách bung cánh buồm không người, đang lững lờ trôi dần vào hải đảo tự thân. Cuối cùng chỉ là trở về bản thể bằng sự thật thứ tư, là con đường đi tới sự chấm dứt khổ đau.


   Cùng với Tứ Diệu Đế, những nốt cuối của Moonlight Sonata No.14 lặng lẽ rụng rơi, trả bàn phím trở về thân gỗ mục.

Như Beethoven và Countess bàng hoàng lạc nhau. 

Như trăng 14 ngủ yên trong mây nên trăng khuyết. 

Như dạ lý quên đánh thức gió nên hương chẳng bay xa.

Tất cả đều phải trở về sự lắng trong, thinh lặng và Cô Đơn Tuyệt Đối.

Đó là bi thương cùng cực, mà cũng là hạnh phúc vô bờ của kiếp nhân sinh và vạn hữu.


Dường như hành giả vừa bước qua một khung cửa hẹp. 

Rất hẹp. 

Chỉ vừa lọt đủ một chữ “KHÔNG”


Hạnh Chi

(Thiền đường Trăng Rằm, một đêm trăng)



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bạn nghe một người nói, nhưng không lên tiếng, bạn suy nghĩ nhưng không bộc lộ. Bạn nén sự giận dữ xuống, bạn bôi xóa sự khinh bạc, bạn chờ cho những lời ca tụng giả dối lắng xuống, bạn giữ lại lời khen ngợi đối với một người xứng đáng thêm một ngày nữa, để nó được nung chín trong lòng.
Cầm cuốn sách mới trong tay, tôi lại nhớ có lần ở quán cafe, Trịnh Y Thư băn khoăn, không biết chúng mình in sách vào thời này có phải là chuyện vô ích không, có phải là quá mơ mộng không. Với đa số, nhất là thế hệ trẻ hơn thì có lẽ là cái gật đầu, nhưng đối với chúng tôi, chúng tôi yêu quý cái vô ích, cái mơ mộng ấy. Tôi xin chia sẻ với quý vị cảm xúc rất riêng của tôi về sách. Nếu không có sách làm sao ta có thể cầm được trên tay cái vật thể nhỏ bé này, một thành quả nhìn bắng mắt cầm bằng tay, chứa đựng trong đó những con chữ đồng hành cùng những phút giây cảm hứng. Không có sách làm sao tôi có thể cảm nhận được trọn vẹn cái sức nặng của hạnh phúc hữu hình trên trang giấy với những dòng chữ ký tặng này? Và khi đọc sách, nghe được tiếng sột soạt khi lật trang giấy, ngửi được mùi giấy mới và cả mùi hương của sáng tạo. Một khi không còn ai in sách nữa thì những tủ đựng sách đẹp đẽ sẽ là món đồ cổ chứng nhân một thời kỳ sách huy hoàng. Và nếu không có sách thì làm sao chúng có được nhữn
Một truyện ngắn kinh điển của văn hào André Maurois, qua bản dịch của nhà văn Thân Trọng Sơn.
Không phải ngẫu nhiên mà Viết Về Nước Mỹ được nhà thơ Nguyên Sa gọi là “Lịch Sử Ngàn Người Viết.” Mà nếu tính cho đến ngày hôm nay, con số “ngàn” ấy chắc đã lên tới chục ngàn, trăm ngàn. Viết Về Nước Mỹ năm nay là năm thứ 25.
Trong không gian tĩnh lặng của một buổi sớm mùa thu tại thủ phủ Sacramento. Trời đã se lạnh, gió mùa vừa sang và những cơn mưa cũng đang bắt đầu nặng hạt, con chắp tay hướng về phương trời xa, nơi pháp thân Thầy vẫn tỏa rạng giữa hư vô. Bao nhiêu lời muốn nói, rồi bỗng hóa thành im lặng, vì làm sao dùng được lời phàm để nói hết công đức, trí tuệ và từ bi của một bậc Thạc đức như Thầy, người mà bốn chúng gọi là bậc minh sư, bậc long tượng Phật Giáo Việt Nam – Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ – người đã hiến trọn đời mình cho đạo pháp, dân tộc và nhân loại.
Khi nói tới những dòng thơ không bao giờ chết, nơi đây chúng ta chỉ muốn nói rằng có những dòng chữ sẽ vẫn được lưu giữ trong ký ức một dân tộc, bất kể là những trận mưa bom, đạn, mìn, đại bác không ngừng bắn vào họ. Và ngay cả khi những tập thơ, các trang giấy có bị đốt ra tro, những dòng thơ đó sẽ vẫn được lưu truyền từ đời này sang đời kia của một dân tộc, nếu họ còn sống sót. Chúng ta may mắn sống trong thời đại của điện thoại thông minh và Internet, nên được nhìn thấy những hình ảnh, đoạn phim, được nghe những tiếng kêu đau đớn từ dưới những đống gạch vụ, và được đọc những đoạn thơ ngắn được gửi ra rất vội từ những người sống sót sau các trận thảm sát. Thế giới này đầy những trận mưa tội ác, từ thảm sát Ukraine tới gạch vụn Gaza...
Trong dòng chảy của Văn học hải ngoại, Trịnh Y Thư là một thành phần cá biệt. Văn chương nghệ thuật với ông trước hết phải đồng nghĩa với cái Đẹp và ông đã áp dụng trong văn thơ cũng như dịch phẩm của ông...
Nhà thơ tên thật Lê Hà Vĩnh, sinh năm 1940 tại Hải Dương. Ông theo gia đình di cư vào Nam năm 1954. Đầu thập niên 1960 ông cộng tác với Nguyên Sa làm tờ Gió Mới. Sau ngày 30-4-1975, ông cùng vợ - Nhã Ca, bị chính quyền Cộng sản Việt-Nam bắt giữ, riêng ông bị giam cầm 12 năm, 1976 -1988.
Nhã Ca, tên thật Trần Thị Thu Vân, sinh ngày 20-10-1939 tại Huế. Nhà văn nhà báo thời Việt Nam Cộng Hoà, sau nhiều năm tháng bị bắt và tù đày sau biến cố 30-4-1975, đã được Văn Bút Thụy Điển bảo lãnh sang nước này tháng 9-1988. Một thời cùng gia-đình sang định cư ở vùng Quận Cam CA, cùng chồng Trần Dạ Từ chủ trương tuần báo Việt Báo Kinh Tế (sau thành nhật-báo Việt Báo và từ tháng 12-2019 trở lại thành tuần báo) rồi thêm Việt Báo USA (San Jose, cùng Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh)


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.