Hôm nay,  

Cọp Sách

24/05/202111:54:00(Xem: 4286)

copsach

Không có tiền mua. Nhẹ nhàng đi vào một tiệm sách. Dịu dàng nhìn chung quanh. Mỉm cười với ông chủ, cô tính tiền và những người canh sách, kẻo bị trộm. Tìm một cuốn sách vừa ý. Đến một góc hẻo lánh. Im lặng. Ít cử động để không gây  chú ý. Đọc.

Từ lúc trung học đệ nhị cấp, tôi đã là người cọp sách chuyên nghiệp. Khởi đầu, e ngại, hồi hộp, xấu hổ, đánh liều, những cảm giác đó tạo ra thú vị, không giống phiêu lưu mạo hiểm, mà giống anh học trò trốn ra khỏi lớp học, đi quán cà phê. Về sau, còn biết thêm, sự thú vị này khiến cho một số ông chồng đi ngoại tình.

Ngược lại, tôi say mê nội tình với sách. Theo thứ tự, cả đời tôi, thứ nhất yêu sách, thứ hai yêu đàn, thứ ba yêu rượu. Còn vợ, thuộc vào thượng hạng.

Vào những ngày cuối tuần, tiệm sách đông người người, nhất là mùa tựu trường, sự hiện diện của những cọp sách gây trở ngại lưu thông, khiến cho chủ tiệm bực bội và nhớ mặt. Kẻ cọp sách khôn ngoan nên tránh xa. Chỉ đến ngày thường, vào giờ ăn chiều, cọp cho đến tối. Thông thường các ông bà chủ lên lầu hoặc về nhà ăn cơm tối. ít khi trở lại trông tiệm. Thay vào đó, là các cô chủ gái hoặc các cậu chủ trẻ, thường xuyên lơ là hoặc thông cảm. Nhất là các cô, ngây thơ, cả tin người ham đọc sách có khả năng làm nên sự nghiệp chữ nghĩa. Thực tế, 100 người cọp, đã 50 người cọp truyện chưởng, 30 cọp chuyện ái tính, 15 cọp sách làm người, 4 cọp tạp lục, chỉ có 1 cọp văn chương, văn hóa.

Ở tỉnh lẻ, cọp sách không phải dễ. Ít người mua, nên kẻ đã không mua, dù hóa thành kệ gỗ, cũng dễ nhận diện. “Cậu tìm sách gì?” “Thưa bác cho cháu đọc ké cuốn sách này.” “Chỗ làm ăn mua bán, cậu đừng đến nữa.” Có một lần tôi cảm động, có lẽ tủi thân thì đúng hơn, muốn ứa nước mắt khi nghe cô  gái đứng quày tính tiền, nói với ông chủ, “Ba, người ta nghèo. chỉ muốn đọc sách thôi mà.”

Những cô thiếu nữ

băng qua đời tôi,

như những bông hoa nở vội.

Rồi từng cánh phai.

Ròi từng cánh phai.

Trên tay tôi

không còn một ai…

(Kaoru Maruyama)

Tôi nhẹ dạ, đa tình, đền ơn nên yêu thầm cô bán sách cho đến ngày cô đi lấy chồng.

Ở tỉnh lẻ, cọp sách nín thở. Không thể minh họa bằng cử chỉ hoặc âm thanh. Phải giữ thái độ tử tế, nho nhả, để có thể trở lại đọc tiếp.

Có lần, tôi đọc Alexis Zorba, Con Người Chịu Chơi, của NikosKazantzaki, dịch giả Nguyễn Hữu Hiệu, đến đoạn Zorba ví mông phụ nữ Nga, nở nang, cứng cáp,  như mông ngựa cái và nó hí lên khi ngửi được mùi ngựa đực. Tôi ngạc nhiên. Lúc đó, biết mông phụ nữ một cách mù mờ, nhưng biết mông ngựa rất rõ, thành thử tưởng tượng lẫn chiêm bao đều hấp dẫn. Nhưng phụ nữ Việt ít ai hí, hầu hết nghe mùi đực phản phất là bỏ đi. Đôi lúc không kịp giã từ. Đọc hết đoạn Zorba không thể nói tiếng Nga, nên nhảy ra sân múa máy, nhào lộn. diễn tả câu chuyện ông muốn kể.  Thật là lý thú. Tôi cũng muốn nhảy ra múa máy nhưng kịp nhìn thấy ánh mắt của bà chủ lăm le chờ bằng cớ.

Về Sài Gòn, nhiều tiệm sách, nhiều sách. Nhất là ở nhà sách Khai Trí, tha hồ đứng đọc. Những lúc thích chí, có thể bật cười hoặc cúi mặt ngẩn ngơ suy nghĩ câu nói cao kỳ mà không sợ ai dòm ngó. Tôi cọp hết bộ Đông Châu Liệt Quốc, Tam Quốc Chí ở nhà sách này. Thoạt đầu, cứ tưởng, dân Sài Gòn giàu có, không quan tâm những cọp quấy rầy. Mãi về sau mới biết, ông chủ Khai Trí là người yêu văn chương. Ông dành ưu tiên cho người trẻ đọc cọp. Có lẽ, khi xưa, ông cũng cọp. (Mời đọc: Một Đời Đam Mê Sách của Phạm Phú Minh. https://nguoitinhhuvo.wordpress.com/2014/03/29/ong-khai-tri-mot-doi-ham-me-sach-pham-phu-minh/)

Tôi vẫn mãi ngưỡng mộ và tâm phục ông. Trước khi ông qua đời (2004), đã in một tập thơ tình chọn lọc, bao gồm thơ trong nước và ngoài nước. Ông làm một chuyến đi sang Mỹ với mục đích gặp các nhà thơ để xin phép in thơ của họ. Ông hẹn tôi ở nhà sách của anh Võ Thạnh. Lần đầu tiên, tôi được bắt tay người chủ hào phóng với cọp. Trò chuyện, Cảm ơn. Kể lại ngày xưa. Cảm ơn. Ký tên vào lá thư đồng ý cho in thơ. Rồi chia tay. Không bao giờ gặp lại. Sự yêu mến, cẩn trọng, xuề xòa mà nghiêm túc đối với văn chương của ông Khai Trí, tôi xin nghiêng mình. Cảm ơn một lần nữa.

Khoảng thập niên 1965-1975, miền Nam Việt Nam không có nhiều sách dịch. Đa số là truyện dịch. Sách dịch về lý thuyết, nghiên cứu, phê bình văn học, văn chương rất hiếm hoi. Có thể nói, thời đó, tìm ái tình dễ hơn tìm loại sách này. Bây giờ, nhớ lại thời thèm sách, cọp sách, không đủ sách để cọp, tôi cho rằng, người Việt hải ngoại thật may mắn, nhất là ở Hoa Kỳ. Muốn đọc sách nào, cũng có thể được. Một đề tài, cả ngàn sách để tìm hiểu. Không hiểu thí có sách khác chú thích, giải nghĩa cuốn sách khó. Nicolaus Copemicus viết: Biết rằng chúng ta biết những gì chúng ta biết, và hiểu rằng chúng ta không hiểu những gì chúng ta không hiểu, đó là sự hiểu biết chân chính. To know that we know what we know, and to know that we do not know what we do not know, that is true knowledge. Sự hiểu biết xây dựng từ học đường không thể sánh với sách. Học từ nhỏ đến lớn, nhiều lắm là 50 ông bà thầy. Sách có cả triệu thầy cô.

 

Bây giờ, đã hơn 20 năm đầu thế kỷ 21, sách dịch ở Việt Nam cũng không nhiều về nghiên cứu phê bình văn học thế giới. Những cậu học trò, sinh viên thèm sách, cọp sách chắc cũng hắm hở như tôi, tìm trang tạp chí hoặc cuốn sách văn chương rồi mò mẫm tra từ điển. Lầy lội, rối mù, lõm bõm, sau cùng là hiểu chưa đúng. Chúng ta không phải là kẻ mù chữ, chỉ mù cơ hội.

Bên trên, tôi có nói, tìm ái tình dễ hơn tìm sách dịch văn học hay. Đây chỉ là một cách ví von. Phụ nữ luôn luôn bí ẩn, biến hóa, có nội dung khó hiểu, có cử chỉ mang nhiều ý khác nhau, dù học suốt đới, vẫn không rành rọt. So với sách hay, phụ nữ hay gấp bội phần. Vì sách dù hay cách mấy, đọc hoài cũng nhàm. Còn phụ nữ, đọc lui đọc tới, tuy có mệt nhưng không bao giờ chán.

 

Ngu Yên
Tháng 4, 2021.  

 

Bạn đọc nào biết những ai thích cọp sách, xin chuyển giúp đến họ, 11 cuốn sách và 99 bài viết về văn học, văn chương. Không cần e ngại chủ sách, không cần phải cọp. Cứ ung dung bấm vào links. Nhẩn nha đọc những khi rảnh rỗi.
Xin chuyển link:

https://independent.academia.edu/TienNguyen228/Papers

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngày 21 tháng 11 năm 1620 hơn 130 di dân từ Anh Quốc đã vượt Đại Tây Dương đến Tân Thế Giới bằng chiếc thuyền Mayflower. Từ ngày đó đến nay, năm 2020, đã 400 năm. Trước đó, vào năm 1607, những người thực dân Anh cũng đã đến Tân Thế Giới và thành lập thuộc địa tại thành phố cổ Jamestown thuộc tiểu bang Virginia ngày nay.Đó là chưa kể đến làn sóng di dân trước đó khoảng 30,000 năm, khi những người ở cực đông bắc Châu Á đi bằng đường bộ qua ngả Alaska -- lúc đó hai đại lục Mỹ Châu và Á Châu vẫn chưa tách rời nhau vì nước biển cạn -- để rồi tràn xuống phía nam hình thành các cộng đồng người bản xứ, mà khi Columbus lần đầu tiên gặp họ ở Tân Thế Giới cứ tưởng là mình đã đến lục địa Nam và Đông Nam Á (Indies) nên gọi họ là người Indian. Vì vậy, nước Mỹ là vùng đất di dân. Không có di dân thì không có nước Mỹ. Chính di dân đã tạo ra nước Mỹ và nền văn hóa Mỹ. Nhưng ngày Lễ Tạ Ơn [Thanksgiving] có liên quan mật thiết đến những người di dân Anh đến Plymouth của Massachusetts bằng chiếc thuyền
Ni giới Việt Nam có một lịch sử truyền thừa lâu dài và đó là sự truyền thừa mang tính chính thống. Phật giáo Đại Thừa và tinh thần Bồ Tát đạo cũng thấm nhuần trong mỗi vị Ni trong bước chân hoằng hóa.
Cuốn sách ngôn từ đẹp và mạnh mẽ này thể hiện niềm tin của Barack Obama rằng, dân chủ không phải là một món quà từ trên cao rơi xuống mà là điều được hình thành dựa trên sự đồng cảm, thấu hiểu và chung tay xây dựng mỗi ngày.
Trong bài trước, khi viết cảm nhận cho thi tập “Xướng Họa Cao Mỵ Nhân & Trịnh Cơ,” vì thời gian có hạn, nên tôi chưa kể hết về Cao Mỵ Nhân (CMN) nhà thơ tiền bối mà tôi hằng kính trọng và khâm phục. Sau khi gửi bài đăng, đọc lại tôi cứ cảm thấy còn thiêu thiếu chút gì.
Nhân loại đã biết cách bay lên mặt trăng, tuy nhiên nhiều nơi trên địa cầu vẫn còn bị ràng buộc với những thói quen xưa cổ, trong đó một thành kiến khó rời bỏ là xem nhẹ phụ nữ. Hầu hết các tôn giáo cũng xem nhẹ phụ nữ. Riêng trong Phật Giáo, phụ nữ từ xưa vẫn có một vị trí đáng kính và bình đẳng trên đường học đạo, để tận cùng là thành tựu Niết Bàn. Khi vua Pasenadi nước Kosala không vui vì hoàng hậu Mallikà sinh một bé gái, Đức Phật trong Kinh SN 3.16 dạy vua rằng: "Này Nhân chủ, ở đời / Có một số thiếu nữ / Có thể tốt đẹp hơn / So sánh với con trai / Có trí tuệ, giới đức..." Hơn hai mươi thế kỷ sau, ý thức nữ quyền mới trở thành phong trào. Theo định nghĩa cô đọng và đơn giản, nữ quyền là niềm tin vào sự bình đẳng của nữ giới với nam giới về chính trị, kinh tế và văn hóa. Do vậy thường khi, nữ quyền gắn liền với dân quyền, vì bình quyền nam nữ dẫn tới ý thức bình quyền cho từng người dân, đặc biệt là nơi các dân tộc đang bị các nước thực dân thống trị, hay nơi các sắc tộc thiểu số
Daisetsu Teitaro Suzuki sinh ngày 11 tháng 11 năm 1870 và mất ngày 12 tháng 7 năm 1966 tại thành phố Kamakura, Nhật Bản, theo www.en.wikipedia.org. Có nơi nói ông sinh vào tháng 10, nhưng năm sinh của ông thì tất cả tài liệu đều giống nhau. Ông sinh ra tại Honda-machi, Kanazawa, Quận Ishikawa, Nhật Bản. Ông là người con trai thứ tư trong gia đình mà người cha là y sĩ Ryojun Suzuki. Pháp Danh Daisetsu của ông đã được Thầy Bổn Sư của ông là Thiền Sư Soyen Shaku [Thích Tông Diễn] ban cho. Thiền Sư Soyen Shaku cũng là người đầu tiên dạy Thiền ở Mỹ. Giai cấp võ sĩ đạo mà Suzuki được sinh ra đã suy tàn với sự sụp đổ của chế độ phong kiến, buộc mẹ của ông là nữ Phật tử Jōdo Shinshū đã nuôi dưỡng ông trong hoàn cảnh nghèo đói sau khi cha của ông qua đời. Khi ông đủ lớn khôn để suy nghĩ về số phận của mình được sinh trong bối cảnh này, ông bắt đầu tìm câu trả lời trong nhiều hình thức khác nhau của tôn giáo. Trí tuệ bén nhạy và sâu sắc tự nhiên của ông đã khó chấp nhận một số vũ trụ quan mà ông
Vâng. Tôi đã nhìn thấy chúng qua gương một dòng trong. Những viên cuội lấp lánh nắng mai. Những viên cuội lung linh trăng rằm. Phản chiếu mầu sắc tĩnh và động. Những viên cuội lắng vào thẳm sâu giấc mơ của dòng -dòng chữ long lanh- ánh lên những gửi gắm của thời gian.
Du Tử Lê: Nguyễn không chỉ có được cho mình một nội lực thi ca thâm hậu, một đam mê quyết liệt tới mức sẵn lòng đánh đổi mọi tiện nghi, may mắn (?) đời thường và, nhất là những thảm kịch, ngộ nhận mà Nguyễn đã trải qua tự những ngày thơ ấu tới hôm nay!...
Khi King lên ba tuổi, cha ông là Donald Edwin King đã bỏ gia đình đi biền biệt bằng một lời nói dối là “đi mua gói thuốc lá.” Mẹ ông, bà Nellie Ruth Pillsbury, đã một mình nuôi dưỡng King và người anh nuôi David, đôi khi họ đối diện với sự ngặt nghèo về tài chánh. Gia đình đã dời tới thị trấn quê nhà của Ruth ở Durham, Maine, nhưng cũng chỉ ở đó một thời gian ngắn rồi tới thị trấn Fort Wayne thuộc tiểu bang Indiana và rồi sau đó tới thị trấn Stratford của tiểu bang Connecticut. Khi còn bé, King chứng kiến một tai nạn kinh khủng và đó là một trong những người bạn của ông đã bị xe lửa cán chết trên đường rầy. Đã có người cho rằng điều đó có thể là cảm hứng cho những sáng tạo kinh dị của ông, dù King đã bác bỏ ý tưởng này.King đã học tại Trường Tiểu Học Durham Elementary School và Trường Trung Học Lisbon Falls High School.King đã bắt đầu viết từ khi ông còn nhỏ. Khi đi học ở trường, ông đã viết nhiều câu chuyện dựa vào các phim mà ông đã xem gần lúc đó và đã bán những chuyện này
Vừa qua, Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại Vùng Đông Bắc Hoa Kỳ (VNHNVĐB HK) mà tôi tham gia, nhận được một tin vui thật lớn, làm rộn ràng cả diễn đàn Văn Bút. Đó là tin văn sĩ gốc Việt Hà Thúc Khánh (Khánh Hà), phu quân của thành viên Văn Bút văn thi sĩ Nguyễn Phương Thúy, đã đoạt cùng lúc hai giải thưởng văn học giá trị của Hoa Kỳ chỉ cách nhau có một tháng.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.