Hôm nay,  

Tản Mạn về thi phẩm Xuân Vẫn Tha Hương của Nữ Sĩ Minh Đức Hoài Trinh

28/01/202316:53:00(Xem: 6521)

Tản Mạn về thi phẩm Xuân Vẫn Tha Hương của Nữ Sĩ  Minh Đức Hoài Trinh 

 

 

* Lê Ngọc Châu

 

 

Chúng ta đều rõ là Âu, Mỹ đón Tết Dương Lịch mỗi năm vào ngày 01.01.

Hằng năm, người Á Châu nói chung và người Việt Nam nói riêng đều đón Tết theo Âm Lịch.

Như vậy người Á Chân có dịp mừng Năm Mới đến hai lần.

 

Chúng ta biết rồi, ngay từ khi còn bé cho đến lúc già chắc chắn không ai mà không biết đến Tết. Khác một điểm là mỗi miền của Việt Nam tổ chức Tết theo phong tục của điạ phương điển hình qua Mâm Cổ Cúng Tết.

 

Trước khi giới thiệu về Nữ Sĩ Minh Đức Hoài Trinh và tác phẩm của bà cho tôi được mở ngoặc ở đây, đề cập sơ vài điểm chính về Mâm Cổ Tết của Ba Miền Nam-Trung-Bắc Việt Nam.

 

Đặc trưng Miền Bắc trên Mâm Cỗ Tết thì có bánh chưng, Miên Nam có bánh Tét và Miền Trung Việt Nam thuần túy với Mâm cỗ ngày đơn giản, chân thành.

 

Mâm cỗ ngày Mùng Một Tết của người miền Bắc gồm có: Bánh chưng, dưa hành, thịt gà luộc, thịt lợn (heo) chiên, thịt đông, miến xào, chả giò, nem chua, canh khoai tây.

 

Mâm cỗ ngày Tết của người miền Trung gồm có những món ăn cơ bản mỗi thứ một ít, được bày trên chiếc mâm tròn thường thấy, bao gồm

 

  • Gà luộc, Thịt heo
  • Bánh tét, Nem chua, Dưa hành
  • Ram cuốn (Ghé Đà Nẵng/Quảng Nam, bên cạnh những đặc sản Mỳ Quảng, bún mắm, bánh tráng cuốn thịt heo, ram cuốn cải là món ăn xuất sắc không thể bỏ qua),…

 

Món ăn không thể nào không kể tên trong mâm cỗ cúng Tết ở miền Nam là thịt kho trứng. Ngoài ra cũng phải kể đến món canh khổ qua nhồi thịt với quan niệm cho rằng mọi sự khổ ải sẽ đều qua đi để đón chào một năm mới hạnh phúc hơn.

Ngoài 2 (hai) món ăn trên người miền Nam còn chuẩn bị thêm

 

 

Riêng Bánh Tét ở miền Nam rất đa dạng về nhân, có bánh Tét nhân đậu xanh, đậu đen, chuối, dừa, … Một số gia đình cũng chuẩn bị thêm chả lụa, giò thủ, lạp xưởng nếu thích.

 

Mâm cỗ, mâm cúng Tết của 3 miền Bắc, Trung và Nam của Việt Nam tuy có nhiều điểm khác nhau trong các món ăn, cách trang bày cho đến những nguyên tắc, ý nghĩa của nó. Tuy nhiên cho dù thế nào đi chăng nữa thì những mâm cỗ của Ba Miền Việt Nam nói chung đều phản ảnh những giá trị thiêng liêng, sâu sắc của nền văn hóa và tín ngưỡng của người Việt Nam.

 

Nói chung sự khác biệt về "Mâm Cổ" cúng Tết của mỗi miền vì nhiều lý do theo Phong Tục, Tập Quán của miền đó nhưng vẫn không thể thiếu các món chính trong các mâm cỗ ngày Tết là Bánh chưng, Dưa hành, Thịt gà luộc, Xôi gấc, Nộm, Nem rán.

 

Trước khi đề cập chi tiết hơn về bài thơ tôi mạn phép giới thiệu sơ về Nữ Sĩ Minh Đức Hoài Trinh (NS_MĐHT), người mà tôi tuy viết lách chỉ là nghiệp dư từ hơn 20 năm qua đã hân hạnh và tình cờ được quen biết ..

 

Theo internet thì tác giả Minh Đức Hoài Trinh (MĐHT) có tên khai sinh là Võ Thị Hoài Trinh, sinh ngày 15 tháng 10 năm 1930. Bà là một nữ văn sĩ, trước 1975 từng là phóng viên chiến trường thời Việt Nam Cộng Hòa. Bà còn dùng một số bút hiệu khác như Hoàng Trúc, Nguyễn Vinh và Bằng Cử.

 

MĐHT sinh ra ở Huế trong gia đình danh gia vọng tộc, dòng dõi Xuân Hòa hầu Võ Liêm,  Thượng thư bộ Lễ dưới hai triều Hoàng đế Khải ĐịnhBảo Đại nhà Nguyễn. Thân phụ là Tổng đốc tỉnh Quảng Nam. Năm 15 tuổi, bà Trinh tham gia phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp một thời gian ngắn rồi về Huế tiếp tục học.

 

blank

 

 

Năm 1964, bà sang Pháp du học ngành báo chíHán văn tại trường ngôn ngữ Á Đông La Sorbonne ở Paris. Sau khi ra trường, kể từ năm 1967 bà làm phóng viên cho đài truyền hình ORTF (Office de Radiodiffusion Télévision Française) của Pháp. Bà cũng từng là phóng viên chiến trường trong chiến tranh Việt Nam và được cử theo dõi tường trình Hòa đàm Paris vào năm 1972 hầu chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình Việt Nam.

Năm 1973, bà sang Trung Đông theo dõi chiến tranh Yom Kippur.

Năm 1974, bà trở về Sài Gòn và giảng dạy khoa báo chí ở Đại học Vạn Hạnh.

 

* Đóng góp văn học

 

Sáng tác của bà Minh Đức Hoài Trinh thuộc nhiều thể loại như thơ, truyện ngắn, truyện dài. Sau năm 1975, bà trở lại Pháp và cho xuất bản tạp chí Hồn Việt Nam. Bà cũng sáng lập Hội Văn bút Việt Nam Hải ngoại và ra sức vận động để hội được công nhận tư cách hội viên Hội Văn bút Quốc tế vào năm 1979 tại Rio de Janeiro, Brasil.

Năm 1980, bà sang Hoa Kỳ định cư tại quận Cam, California.

 

Năm 2017, bà qua đời tại thành phố Huntington Beach, California.

 

* Nữ Sĩ Minh Đức Hoài Trinh đã xuất bản những  tác phẩm

 

  • Lang thang (năm 1960); Thư sinh (1962); Bơ vơ (1964); Hắn (1964); (1964)
  • Thiên nga (1965); Hai gốc cây (1966); Sám hối (1967)
  • Tử địa (1973): Trà thất (1974); Bài thơ cho ai?, năm 1974.
  • Dòng mưa trích lịch, Bruxelles (năm 1976)
  • 2014, Chính Khí Của Người Cầm Bút do Câu Lạc Bộ Tình Nghệ Sĩ thực hiện, Nhân Ảnh xuất bản.

Nữ Sĩ Minh Đức Hoài Trinh mất ngày 19 tháng 6 năm 2017.

             

Ở trên là tóm lược về tiểu sử và tác phẩm của Bà Minh Đức Hoài Trinh.

 

Cho tôi mở ngoặc thêm ở đây chút xíu là năm 2015 tôi hân hạnh được làm quen với Cố Thi-Văn Sĩ Minh Đức Hoài Trinh khi nhận được quyển sách Chính Khí Của Người Cầm Bút do bà gửi tặng. Cũng xin được nói thêm, Bà Minh Đức Hoài Trinh đã cùng với hai ông Trần Tam Tiệp và Nguyên Sa Trần Bích Lan sáng lập ra Trung Tâm Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại (Founder of Vietnamese Abroad Pen Center).

 

Năm 1978-1979 bà Minh Đức Hoài Trinh là Chủ tịch của Pen VietNam.

 

 

Bây giờ tôi mạn phép thử đưa "Thi Phẩm của Nữ Sĩ Minh Đức Hoài Trinh lên bàn mổ và xin mạo muội giới thiệu ngắn gọn cùng Quý độc giả. Chỉ xin một điều mong Quý vị và nhất là những thi sĩ hoan hỷ cho mọi sự nếu tôi không hay chưa diễn đạt trọn vẹn ý thơ.

 

Tiêu đề "Xuân Vẫn Tha Hương" của bài thơ cũng đủ để chúng ta biêt hay hình dung ra ngay được hoàn cảnh của chính Thi Sĩ tác giả cũng như của một người thật sự bỏ nước ra đi vì hoàn cảnh để tị nạn cộng sản.

 

Mở đầu thi phẩm, MĐHT đã xác định rõ ràng thân phận của chính mình (và có lẽ của nhiều người Việt Nam khác cùng cảnh ngộ, trong đó có người viết kể từ khi tị nạn chính trị ở Đức sau 1975!):

 

          Thế mà con mẹ vẫn tha hương,

 

Tác giả đã phác họa cảnh sống của mình nơi xứ người với bao nỗi nhớ thương:


          Xa mẹ, xa nhà, xa mến thương,

 

Sự khác biệt về Đêm Giao Thừa của quê hương Việt Nam và quê hương mới được thu gọn đơn giản và dễ hiểu qua hai câu thơ sau đây:


          Trừ tịch đêm nào hồng tiếng pháo,
          Nơi nầy chỉ thấy tuyết hòa sương.

 

Để rồi tác giả nhớ lại khung cảnh ngày xưa khi còn ở quê nhà mà có lẽ nhiều người Việt Nam đều đã trải qua trưóc 1975 :

 

          Đêm nay hồi tưởng đến đêm xưa,
          Ngây ngất đâu mùi hương thoáng đưa,
          Bóng Mẹ cúi bày mâm cỗ cúng,
          Khấn Ông Bà đến để say sưa.

 

Riêng những gia đình nào có con cái "vượt biên, vượt biển" tìm Tự Do sau 1975 có lẽ hiểu rõ hơn ai hết khi thiếu vắng hình bóng người thân trong gia đình:

 

          Mẹ bảo ông bà vẫn hỏi con,
          Rằng Tr. sao nó vắng nhà luôn,

 

Tác giả hồi tưởng lại cảnh xa xưa khi còn cấp sách đến trường mà chúng ta cũng đã trải qua:

 

          Mẹ có nhớ thưa con cố học,
          Bao giờ thi đỗ mới hồi hương.

 

Đặc biệt khung cảnh lúc gần Tết mà tác giả thi sĩ không quên được, còn ghi nhớ:

 

          Bánh chưng mẹ nấu có nhiều không?
          Nồi bánh chưng này ai thức trông?
          Mẹ có gói thêm đòn bánh nhỏ?
          Để cho con út mẹ vòi công . . .

 

Để rồi, tác giả diễn tả hoàn cảnh của mình (và có lẽ cũng là của những người Việt Nam đồng cảnh ngộ), đơn giản nhưng trung thật khi nhắc đến Mẹ:

 

          Xuân này con mẹ vẫn tha hương,
          Mẹ một phương trời, con một phương,

 

Hình ảnh Người Mẹ Già được tác giả phác hoạ chỉ với một câu thơ nhưng rõ nét:


          Tóc trắng Mẹ già thêm chút nữa,

 

Vâng, xa nhà xa quê hương, xa gia đình nhất là xa Mẹ, nhớ thương Mẹ đã được Thi Sĩ tác giả tâm sự để kết thúc thi phẩm, được gói trọn qua câu thơ:

 

          Và con, nhòa nhạt tiếng yêu đương.

 

Bài thơ thật súc tích, không những cho người đọc hình dung ra được ngay cảnh gia đình chuẩn bị đón Tết mà còn đong đầy tình cảm thương nhớ người thân và quê hương.

 

 

Bây giờ tôi mạn phép được giới thiệu nhạc phẩm do tôi phổ nhạc bài thơ Xuân Vẫn Tha Hương dưới đây với khả năng tự học mò tàm thụ với ông thầy Google để kết thúc bài tạp ghi.

 

Thú thật trong đời tôi hầu như ít khi viết giới thiệu về Thơ-Văn-Nhạc vì tôi không biết gì nhiều về nhạc nên xưa nay nào dám. Thêm nữa, văn chương chữ nghĩa của một cựu học sinh ban B như tôi thì "khỏi chê vì xưa lúc đi học rất ghét môn Việt văn", vậy mà thời gian qua tôi lựu đạn đã xí xọn, gồng mình viết vài bài tạp ghi giới thiệu về thơ nhạc, lại còn bày đặt phổ vài bài thơ mình thích tình cờ thấy trên nhóm / diễn đàn thành nhạc nữa. Thầm nghĩ cũng lạ thật !.

 

Xin nói thêm, cái hay của thi phẩm " Xuân Vẫn Tha Hương " của Nữ Sĩ Minh Đưc Hoài Trinh theo tôi là Văn-Thi Sĩ Minh Đưc Hoài Trinh đã vẻ ra đơn giản cái "Không Khí Tết xứ người, pha lẫn sự nồng nàn nhớ Quê Mẹ của một người đang sống tha phương trong đó.

 

Thi sĩ tác giả kết thúc bài thơ diễn tả nỗi thương nhớ "Mẹ" của người mất nước và cũng chính là nỗi đau của tác giả đối với quê hương khi còn trẻ cho đến cuối tháng Tư năm 1975 …

 

 

Tôi mạn phép ngưng ở đây và mời Quý độc giả ghé ghé xem bản nhạc do tôi (người soạn nhạc) biên soạn tài tử như là món quà nhỏ kính tặng Cố Nữ Sĩ Minh Đức Hoài Trinh, tác giả của thi phẩm " XUÂN VẪN THA HƯƠNG " mà tôi hân hạnh và tình cờ quen qua diễn đàn Thơ-Văn và Cạu Lạc Bộ Tình Nghệ Sĩ ở California/USA.     

 

 blank

 

 

©       Lê-Ngọc Châu

 

          * Nam Đức, Chiều Mồng Bảy Tết Quý Mão, 28. January 2023

          * Tài liệu tham khảo: Internet / Wikipedia & hình tác giả từ internet tự minh họa với nhạc.

 

*************



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cuối năm 2019 Nhà Perrin ấn hành cảo luận Nam Phuong, La denière impératrice du Vietnam của giáo sư François Joyaux, là nghiên cứu sau cùng của giới sử gia Pháp về hoàng hậu Nam Phương. Trước tiên có sự khác biệt trong tước hiệu: Nhà Nguyễn và các sách tiếng Việt đều viết Hoàng hậu nhưng phía Pháp luôn viết Impératrice là Nữ hoàng. Do trong mắt Tây phương, Đại Nam là một đế quốc mà Ai Lao và Cao Miên đã thần phục. Trong hồi ký L’Indochine française: Souvenirs xuất bản vào năm 1905, toàn quyền Paul Doumer từng viết: “Nếu chúng ta không đến kịp để ngăn chặn, phần số của Thái Lan đã kết thúc trong tay Đại Nam.” Pháp cũng luôn xem Trung kỳ và Nam kỳ là hai thuộc địa của nhà Nguyễn. Quốc sử quán triều Nguyễn ngược lại, phải tuân thủ quốc sách xin cầu phong và nhận tỉ ấn của Thanh triều (chỉ xem Đại Nam là vương quốc An Nam), nên không thể có danh xưng hoàng đế và nữ hoàng. Phải đến 1945, trong tuyên ngôn độc lập đầu tiên, Bảo Đại mới đặt tên nước là Đế Quốc Việt Nam.
Cao Bá Quát tự Chu Thần (bậc thần tử của nhà họ Chu) sống vào thế kỷ thứ 19, người sau này xếp bút nghiên đứng lên phất cờ chống lại triều đình nhà Nguyễn ở Mỹ Lương...
Sài Gòn có con đường nối liền hai đường song song Bùi Viện và Phạm Ngũ Lão, nối khúc gần rạp hát Thái Bình ngày xưa với khúc đuôi của Phố Tây Bùi Viện. Con đường không dài hơn 2km đâm ra bến xe buýt mới Sài Gòn, chỗ trước đây nằm trong khu ga xe lửa Sài gòn tên là Đỗ Quang Đẩu. Cái tên Đỗ Quang Đẩu của con đường nầy ngày nay hình như vẫn còn, vẫn mang tên cũ... Nhưng Đỗ Quang Đẩu là ai, sao lại có tên đường ngay một vùng rất gần với những khu tấp nập của Sài gòn? -- Học giả Nguyễn Văn Sâm, nổi tiếng với những công trình biên khảo văn chương nghệ thuật đặc thù Nam bộ, cho chúng ta câu trả lời qua bài viết sau. Việt Báo trân trọng giới thiệu.
Đối với quần chúng bình dân, những giáo nghĩa cao siêu về Tánh Không (Śūnyatā) mà Bồ Tát Quán Tự Tại đã giảng cho Tôn Giả Xá Lợi Phất trong Bát Nhã Tâm Kinh là triết lý cao thâm khó thấu hiểu và thực hành trong cuộc sống hàng ngày. Đối với quần chúng bình dân, một Bồ Tát Quan Thế Âm trong hình ảnh của Quan Âm Thị Kính hay Quan Âm Diệu Thiện sẽ gần gũi, dễ cảm thông, dễ tiếp nhận, và dễ được ảnh hưởng sâu đậm hơn.
Giáo sư Nguyễn Văn Sâm, một học giả không xa lạ trong cộng đồng người Việt hải ngoại, cho biết ông vừa hoàn thành việc phiên âm và giới thiệu một cuốn sách xưa hơn 100 năm, cuốn Quan Âm Tế Độ Diễn Nghĩa Ca. Dưới đây là Lời Tựa của cuốn sách. Việt Báo trân trọng iới thiệu.
Tôi đề nghị các bạn có khả năng dịch cứ dịch, thời gian sẽ loại bỏ những gì không đúng, không phù hợp, nhưng không cần phải chỉ trích nhau về bản dịch. Nếu thấy dịch không “đúng” theo ý mình, thì mình dịch một bản khác, “đúng” hơn, để người đọc giám định và học hỏi. Có câu, “chỉ trích là rẻ tiền, hành động là đầu tư.” Người đọc có trình độ đều có thể nhìn thấy: hành động vạch lá tìm sâu, lòng tỵ hiềm, và bóng tối âm u trong lời chỉ trích thiếu hiểu biết. Thay vì mất thời giờ vạch cỏ tìm gai, sao không trồng cây hoa, cây ăn trái?
“Tôi vừa nghe ba tiếng nổ,” nhà thơ Iya Kiva đăng lên trang Facebook của bà vào đêm 23/2/2022. “Hãy chờ… đang xảy ra.” Kiva, một nhà thơ, dịch giả và nhà báo, đang sống tại Kyiv kể từ mùa hè 2014, khi bà chạy thoát khỏi quê hương Donetsk sau khi bùng nổ cuộc chiến chống lại những người ly khai do Nga yểm trợ. Trong tám năm qua, Kiva là một trong nhiều nhà thơ trẻ tại Ukraine mô tả về sự tuyệt vọng đang diễn ra của chiến tranh và hy vọng tại một đất nước đang tìm một căn cước độc lập.
Tháng Hai, năm 2022, tờ The Atlantic công bố một bản tin mà người quan tâm đến chữ nghĩa sách vở không thể không nhíu mày suy nghĩ. Theo bản tin, Dân biểu tiểu bang Texas, ông Matt Krause, mới đây đã liệt kê một danh mục hơn 800 nhan đề sách bị liệt vào loại cấm lưu hành trong trường học, trong đó có rất nhiều sách với nội dung liên quan đến vấn đề chủng tộc và đồng tính (gọi chung là LGBTQ). Liền sau đó một nghị sĩ tiểu bang Oklahoma cũng đưa ra một dự luật cấm, không cho các thư viện trường học lưu trữ các sách có chủ đề và nội dung bị xem là “đồi trụy”. Đồng thời, Hội đồng Giáo dục quận hạt McMinn, bang Tennessee đưa ra sắc lệnh cấm học sinh không được phép đọc cuốn Maus của tác giả Art Spiegelman. (Maus là một tác phẩm hình họa, được trao giải Pulitzer, một cuốn tự truyện về người Do Thái bị Đức Quốc xã đối xử tàn bạo như con thú trong các trại tập trung, lò sát sinh thời Đệ Nhị Thế chiến).
Tác giả tác phẩm này là Tỳ Kheo Sujato, thường được ghi tên là Bhikkhu Sujato, một nhà sư Úc châu uyên bác, đã dịch bốn Tạng Nikaya từ tiếng Pali sang tiếng Anh. Bhikkhu Sujato cũng là Trưởng Ban Biên Tập mạng SuttaCentral.net, nơi lưu trữ Tạng Pali và Tạng A Hàm trong nhiều ngôn ngữ
Đêm chia ly, ngày sẽ tới tôi trọn đời, ngồi chép kinh làm thơ nhìn lửa ba cõi thấy vô ngã, ngộ vô sinh . Mở trang kinh, nghe tin bạn rơi tay bút, mực loang dòng bọt sóng trôi vô cùng tận như tia chớp, như hạt sương


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.